Công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong những năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã tổng kết: “Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải được bảo đảm; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được triển khai chủ động, toàn diện.... Hệ thống chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả” (1).

Biển Đông là một hình thể biển lớn nhất sau 5 đại dương, có vị trí rất quan trọng trong khu vực và trên thế giới, không chỉ về tài nguyên biển mà còn về đường hàng hải quốc tế do nằm trên tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Chính vì vậy, đây cũng là một “điểm nóng” về an ninh và bất ổn định của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với sự cạnh tranh địa chính trị và địa chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại biển Đông. Đặc biệt, việc gia tăng xây dựng lực lượng và quân sự hóa biển Đông tạo ra những bất ổn lớn, làm cho tranh chấp biển Đông ngày càng gay gắt, khiến tình hình trên biển Đông thêm phức tạp và khó lường, không chỉ trên mặt biển mà còn cả dưới đáy biển và trên không. Điều đó đặt ra những thách thức lớn trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 

Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao thương với quốc tế, vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo không chỉ là nhiệm vụ của các lực lượng chuyên trách, mà còn là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân cũng như của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Điều đó giúp chúng ta giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán; đảm bảo an ninh trên biển cho việc khai thác tài nguyên trên các vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta; thúc đẩy quan hệ với các nước có cùng lợi ích; đồng thời tăng cường tinh thần đoàn kết dân tộc và củng cố sự lãnh đạo của Đảng, sự bền vững của chế độ; không để các nước và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam lợi dụng các vấn đề ở trên biển để can thiệp vào công việc nội bộ, gây chia rẽ mất đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Trước bối cảnh đó, Việt Nam cần tập trung xây dựng tiềm lực tổng hợp của đất nước, kết hợp quốc phòng - an ninh và đối ngoại, kết hợp “sức mạnh dân tộc” với “sức mạnh thời đại”, nhằm tăng cường thế và lực trong sự nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích trên biển Đông. Cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không mơ hồ, chủ quan, bình tĩnh trước mọi diễn biến, tình hình, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những nguy cơ xung đột, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo; khôn khéo xử lý các tình huống có thể xảy ra, tránh tạo cớ cho nước ngoài lợi dụng tấn công ta; không mắc mưu khiêu khích của đối phương, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn, ý đồ của đối phương để ngăn chặn, đẩy lùi xung đột vũ trang, giành thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là tiền đề quan trọng để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn./.

(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

K3

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website