Kỳ 2: Tái phát leo thang, thương chiến bùng nổ - Phương thức sử dụng của Mỹ và Trung Quốc

Đất hiếm - vũ khí lợi hại của Trung Quốc trong thương chiến Mỹ - Trung. Ảnh: AP.
1. Bối cảnh tái phát leo thang, thương chiến Mỹ - Trung bùng nổ trở lại
Sau một giai đoạn “giảm nhiệt” tương đối sâu, thương chiến Mỹ - Trung đã bùng nổ trở lại với mức độ căng thẳng chưa từng có kể từ đầu năm 2025, khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính sách thương mại cứng rắn của Mỹ được đẩy mạnh trở lại, tập trung vào các ngành công nghiệp trọng điểm như xe điện, chất bán dẫn và pin năng lượng – những lĩnh vực mà Mỹ coi là thiết yếu để duy trì ưu thế công nghệ.
Ngay từ những ngày nhậm chức đầu tiên (20.01.2025), chính sách thương mại của Mỹ đã chuyển hướng quyết liệt. Ngày 01.02.2025, Tổng thống D.Trump ký sắc lệnh áp thuế lên hàng hóa từ Trung Quốc, Canada, Mexico. Sau đó là hàng loạt động thái khiến tình hình liên tục leo thang: Ngày 04.02.2025, mức thuế 10% với hàng hóa Trung Quốc có hiệu lực, lập tức Bắc Kinh đáp trả bằng thuế lên than đá, dầu thô và sản phẩm nông nghiệp Mỹ. Chỉ trong vòng hai tháng, Mỹ liên tục tăng thuế lên thép, nhôm, xe điện Trung Quốc (đạt mức 60%) để bảo vệ các nhà sản xuất nội địa như Tesla, GM, đồng thời Trung Quốc đánh thuế nặng lên thịt, đậu nành và kiểm soát xuất khẩu.
Tháng 4, Mỹ tiếp tục tung ra loạt thuế “Ngày Giải phóng” với mức cơ bản 10% và cao hơn với Trung Quốc (34%), EU, Nhật, Hàn Quốc… Trung Quốc đáp trả bằng mức thuế tương tự, đồng thời áp thuế 34% lên toàn bộ hàng hóa Mỹ, bao gồm nông sản, công nghệ, hàng tiêu dùng và thắt chặt xuất khẩu đất hiếm. Đỉnh điểm, đến ngày 15.4.2025, Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế tổng cộng lên tới 245% khi Mỹ tiếp tục gia tăng áp lực. Trước nguy cơ suy thoái, Bắc Kinh buộc phải tạm dừng thuế suất 125% với một số hàng hóa như thiết bị y tế và hóa chất công nghiệp – những lĩnh vực ảnh hưởng lớn đến sản xuất trong nước của Trung Quốc.
Tháng 5.2025, Trung Quốc công bố gói kích thích quy mô lớn, bao gồm cắt giảm lãi suất, bơm thanh khoản, nới lỏng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hỗ trợ nền kinh tế đang chịu sức ép kép từ cả bên ngoài lẫn bên trong. Những diễn biến này cho thấy thương chiến không còn là cuộc đọ thuế đơn thuần mà đã trở thành một cuộc đối đầu chiến lược dài hơi giữa hai siêu cường, cả về “chiến tranh công nghệ” – nơi quyền lực mềm, chuỗi cung ứng, FDI và đổi mới sáng tạo được đưa vào bàn cờ chiến lược.
Nguyên nhân sâu xa khiến thương chiến Mỹ-Trung tái bùng phát vẫn do mâu thuẫn về cán cân thương mại, công nghệ và quyền lực địa chính trị. Mỹ muốn tái cân bằng cán cân thương mại, bảo vệ sản xuất nội địa và duy trì vị thế siêu cường công nghệ. Trung Quốc lại quyết tâm tiến lên các nấc thang giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với tham vọng trở thành trung tâm công nghệ mới của thế giới. Việc D.Trump tái đắc cử cho thấy xu hướng bảo hộ và chủ nghĩa dân tộc kinh tế quay trở lại và tiếp tục chi phối chính sách thương mại Mỹ. Bảo vệ việc làm, ngành công nghiệp và an ninh chuỗi cung ứng trở thành ưu tiên số một, đặc biệt trong bối cảnh cử tri Mỹ ngày càng mất niềm tin vào toàn cầu hóa. Cạnh tranh Mỹ - Trung không chỉ là kinh tế mà còn là cuộc đua về ảnh hưởng toàn cầu: từ châu Á – Thái Bình Dương, châu Phi đến châu Âu, nơi cả hai đều muốn mở rộng tiếng nói và kiểm soát các chuỗi giá trị chiến lược.
2. Phương thức sử dụng của Mỹ trong thương chiến
Biện pháp thương mại - Đòn thuế quan nặng tay trên quy mô lớn
Mỹ là nước nhập khẩu lớn hàng hóa từ Trung Quốc (hơn 500 tỷ USD từ năm 2017). Do đó, công cụ chủ yếu mà Mỹ sử dụng là đánh thuế cao lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Từ việc áp thuế 25% lên 34 tỷ USD hàng hóa, rồi 50 tỷ USD, sau đó 10% lên thêm 200 tỷ USD với các hàng hóa khác, Mỹ cảnh báo tổng lượng hàng Trung Quốc bị áp thuế có thể lên đến hơn 500 tỷ USD, tức lớn hơn cả kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2017. Năm 2025, Mỹ tiếp tục nâng thuế lên xe điện, thép, nhôm, các sản phẩm công nghệ cao, nhằm bảo vệ ngành công nghiệp nội địa và ngăn chặn dòng hàng giá rẻ của Trung Quốc tràn vào.
Biện pháp phi thương mại - Hạn chế đầu tư, kiểm soát công nghệ
Bên cạnh thuế quan, Mỹ sử dụng các biện pháp phi thương mại như: (1) Hạn chế đầu tư của Trung Quốc: Thông qua Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Mỹ (CFIUS), Mỹ ngăn cản các công ty Trung Quốc mua lại các công ty Mỹ trong lĩnh vực công nghệ, đặc biệt nhắm vào chương trình “Made in China 2025”. Theo kế hoạch, các công ty có từ 25% vốn sở hữu Trung Quốc trở lên sẽ bị cấm mua lại những công ty Mỹ liên quan tới công nghệ như hàng không vũ trụ, người máy, ô tô. Trọng tâm của kế hoạch này trước hết nhằm vào chương trình “Sản xuất tại Trung Quốc 2025”, một chiến lược Trung Quốc đang theo đuổi nhằm chi phối các ngành công nghiệp của tương lai. (2) Siết chặt kiểm soát xuất khẩu: Mỹ soạn thảo quy định xuất khẩu nhằm ngăn công nghệ cao chuyển tới Trung Quốc, đặc biệt là chip AI (trí tuệ nhân tạo), công nghệ bán dẫn, hàng không vũ trụ, người máy, ô tô. (3) Bao vây công nghệ: Mỹ áp đặt cấm vận với các công ty như Huawei, cấm sử dụng thiết bị của Trung Quốc trong hạ tầng viễn thông, hạn chế chuyển giao công nghệ và dịch vụ điện toán đám mây. Đây là chiến lược nhằm cô lập các công ty công nghệ chủ chốt của Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu. (4) Đòn bẩy đàm phán: Các mức thuế quan mới không chỉ mang tính trừng phạt mà còn là công cụ mặc cả trong đàm phán song phương đem lại lợi thế cho Mỹ.
Chính sách kinh tế trong nước
Mỹ đồng thời triển khai các gói kích thích, hỗ trợ doanh nghiệp, kiểm soát lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của thương chiến đến nền kinh tế nội địa.
Để thu hút đầu tư nước ngoài, đưa việc làm “trở lại” Mỹ và tránh lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài, Tổng thống Trump đã đe dọa áp thuế cao đối với các mặt hàng của các nhà sản xuất lớn, nhất là những tập đoàn công nghệ cao sản xuất chip, chất bán dẫn. Chẳng hạn với tập đoàn sản xuất chip Taiwan Semiconductor Manufacturing Company (TSMC), D.Trump đe dọa sẽ áp thuế quan lên đến 100% chip nhập khẩu. Chính sự đe đọa đó mà TSMC đã phải cam kết đầu tư vào Mỹ một khoản đầu tư lên đến 100 tỷ USD.
3. Phương thức sử dụng của Trung Quốc trong thương chiến
Biện pháp thương mại - Thuế quan trả đũa có chọn lọc
Trung Quốc nhập khẩu từ Mỹ (131 tỷ USD năm 2017) ít hơn nhiều so với Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc (506 tỷ USD). Do đó, công cụ thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu từ Mỹ tuy vẫn được Trung Quốc áp dụng, song tác dụng khá hạn chế. Hơn nữa, Trung Quốc ngần ngại áp thuế nhập khẩu cao lên các mặt hàng nhu yếu phẩm (một phần lớn trong đó nhập khẩu từ Mỹ) do không muốn người dân nước này phải chi trả lớn hơn cho các mặt hàng này.
Ngày 6.7.2018, Trung Quốc đã áp thuế nhập khẩu đối với 545 mặt hàng Mỹ, trên 90% trong số đó là nông sản. Động thái này khiến Đảng Cộng hòa và Tổng thống Donald Trump gặp rắc rối chính trị tại các bang nông nghiệp Mỹ, những nơi đã giúp ông Trump thắng cử năm 2016 và phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 2018 (bầu lại một số ghế thượng nghị sỹ, hạ nghị sỹ và thống đốc bang ở Mỹ). Tuy nhiên, việc áp thuế nhập khẩu nông sản cao cũng sẽ khiến Trung Quốc thiệt hại, do nó làm giá thực phẩm tại thị trường Trung Quốc tăng.
Biện pháp phi thương mại - Đòn bẩy đa dạng và linh hoạt
Chính sách tỷ giá: Trung Quốc có thể chủ động giảm giá đồng NDT để tăng tính cạnh tranh xuất khẩu, dù luôn phủ nhận cáo buộc thao túng tiền tệ. Trung Quốc luôn biện minh, giá trị đồng NDT là do thị trường quyết định. Trong cuộc chiến tranh thương mại hiện nay, Trung Quốc sẽ không ngần ngại tiếp tục sử dụng tỷ giá như một công cụ tạo lợi thế cạnh tranh xuất khẩu với Mỹ.
Sử dụng trái phiếu kho bạc Mỹ: Là trái chủ lớn nhất của Mỹ với khoảng 1.200 tỷ USD trái phiếu, Trung Quốc có thể phát tín hiệu bán ra hoặc giảm mua, gây áp lực lên thị trường tài chính Mỹ, tuy nhiên biện pháp này cũng tiềm ẩn rủi ro cho Trung Quốc. Chẳng hạn, Trung Quốc có thể đột ngột bán ra một lượng lớn trái phiếu chính phủ Mỹ (hoặc chỉ cần phát tín hiệu sẽ giảm mua trái phiếu Mỹ trong tương lai), điều đó sẽ khiến lãi suất dài hạn ở Mỹ tăng, ảnh hưởng tiêu cực đến Chính phủ và những người mua nhà ở Mỹ, do phí vay tăng lên. Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp trên, Trung Quốc cũng bị thiệt hại, do giá trị trái phiếu Mỹ họ đang nắm giữ bị giảm.
Kiện Mỹ lên WTO: Ngay sau khi Mỹ áp mức thuế 25% đối với mặt hàng thép và 10% với mặt hàng nhôm nhập khẩu ngày 23.3.2018, Trung Quốc đã đệ đơn kiện Mỹ tại WTO với cáo buộc Mỹ đã thực hiện các biện pháp bảo hộ thương mại dưới vỏ bọc an ninh quốc gia, vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử và cam kết giảm thuế theo quy định của WTO. Ngày 6.7.2018, ngay sau khi Mỹ áp thuế bổ sung 25% đối với hàng hóa nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ Trung Quốc, Trung Quốc đã tiếp tục đệ đơn kiện Mỹ lên WTO.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc kiện Mỹ lên WTO khó có tác dụng thực sự bởi các lý do sau: Là nền kinh tế lớn nhất thế giới đã từng ủng hộ mạnh mẽ tự do thương mại, Mỹ đóng vai trò then chốt đối với sự ra đời và tồn tại của WTO. Bên cạnh đó, Tổng thống Trump từng đe dọa rút Mỹ khỏi WTO, thậm chí chỉ thị soạn thảo dự luật để kích hoạt quá trình này. Nếu Mỹ rút khỏi WTO sẽ tạo ra những hệ lụy rất lớn cho tổ chức này. Mặc dù, WTO là nơi 164 nền kinh tế trên thế giới thỏa thuận về việc thực thi các cam kết hội nhập và giải quyết bất đồng, song tổ chức này hiện đang bất lực trong cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc.
Biện pháp hành chính: Trung Quốc gây khó dễ cho doanh nghiệp Mỹ bằng cách trì hoãn cấp phép, thanh tra thuế, kiểm tra an toàn, trì hoãn thủ tục hải quan... Các biện pháp này tác động đến các doanh nghiệp của Mỹ trên những phương diện chính, gồm: (1) Gây khó khăn trong quá trình cấp giấy phép. Hầu hết lĩnh vực kinh doanh tại Trung Quốc đều phải được cấp phép. Cơ quan cấp phép Trung Quốc có thể trì hoãn quá trình cấp giấy phép, hoặc thậm chí thu hồi giấy phép của các công ty Mỹ. (2) Áp dụng các quy định mang tính phân biệt đối xử. Trung Quốc đã từng sử dụng các cuộc điều tra tham nhũng, thanh tra thuế, thậm chí hàng ngày tiến hành kiểm tra y tế hay an toàn lao động để gây cản trở hoạt động của các công ty nước ngoài, thậm chí đóng cửa những cơ sở này, vì các vi phạm nhỏ trong tuân thủ quy định của Trung Quốc. Trung Quốc có thể sử dụng các biện pháp tương tự khiến các công ty Mỹ phải trả giá lớn hơn cho các cơ sở sản xuất hay bán lẻ tại Trung Quốc. (3) Trì hoãn thủ tục hải quan. Trung Quốc đã từng sử dụng biện pháp như vậy đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu của Mỹ, khiến hàng hóa bị ứ đọng trong thời gian quan hệ song phương căng thẳng.
Sử dụng truyền thông: Trung Quốc đã có kinh nghiệm trong việc sử dụng truyền thông tẩy chay hàng hóa nước ngoài. Trong cuộc chiến tranh thương mại hiện nay, Trung Quốc có thể sẽ lại sử dụng truyền thông kêu gọi người dân tẩy chay hàng hóa Mỹ và công ty Mỹ hoạt động ở Trung Quốc. Khách hàng Trung Quốc có thể tẩy chay điện thoại iPhone của hãng Apple (Trung Quốc hiện là thị trường lớn thứ 3 của hãng này), hoặc tẩy chay hơn 3.300 cửa hàng cà phê Starbucks ở Trung Quốc.
Hạn chế du lịch ra nước ngoài của người Trung Quốc: Chính phủ Trung Quốc đã từng sử dụng các biện pháp hạn chế khách du lịch Trung Quốc bằng cách chỉ đạo các công ty du lịch Trung Quốc không bán gói tour du lịch tới một số địa điểm nhất định (Năm 2012, Bắc Kinh đã hạn chế người Trung Quốc du lịch tới Nhật Bản khi xảy ra vụ tranh chấp đảo Senkaku…). Tuy Mỹ là một mục tiêu khó khăn hơn do nước này ít phụ thuộc vào các gói tour du lịch, song bất kỳ sự sụt giảm nào về số lượng khách du lịch Trung Quốc tới Mỹ chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu 33 tỷ USD mà du khách Trung Quốc chi hàng năm ở Mỹ.
Kích thích kinh tế và đổi mới sáng tạo: Trước sức ép thương chiến và suy thoái nội địa, Trung Quốc tung ra các gói kích thích lớn, cắt giảm lãi suất, bơm thanh khoản, nới lỏng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghệ nội địa, đa dạng hóa chuỗi cung ứng để giảm phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung hiện đã chuyển từ cuộc “đọ thuế” đơn thuần sang một cuộc đối đầu tổng lực về công nghệ, chuỗi cung ứng, quyền lực mềm và địa chính trị. Việc sử dụng đa dạng các biện pháp thương mại, phi thương mại, chính sách kinh tế, truyền thông và đòn bẩy ngoại giao cho thấy tính chất phức tạp, lâu dài và khó lường của cuộc chiến này. Tác động của thương chiến không chỉ dừng lại ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới mà còn lan tỏa, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế, công nghệ và thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các quốc gia và doanh nghiệp cần chủ động thích ứng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nâng cao năng lực cạnh tranh và sẵn sàng cho những biến động mới của cục diện thương mại thế giới.
Đình Thiện - Bích Ngọc