Từ bản hùng ca bi tráng nơi chiến trường rực lửa đến kỷ nguyên phát triển của dân tộc

Trong hai ngày 23-25/7/2025, Học viện Chính trị CAND tổ chức hành trình về nguồn, dâng hương, dâng hoa tại Khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc; viếng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9, Thành cổ Quảng Trị, Bến sông Thạch Hãn và Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn; thông qua các hoạt động trong chương trình này, Thượng tá,TS Nguyễn Tuyết Lan, Khoa Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học đã có bài viết cảm nhận về chuyến đi, Trang thông tin điện tử Học viện xin giới thiệu bài viết:

Hoạt động về nguồn, tìm về địa chỉ đỏ là một hoạt động được thực hiện thường xuyên tại Học viện Chính trị Công an nhân dân. Hoạt động này được đưa vào chương trình đào tạo trong các nội dung liên quan đến thực tế. Truyền thống, lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự chủ, tự cường, tự tôn và tự hào dân tộc được lan tỏa từ hoạt động về nguồn. Bài viết là những cảm nhận trong chương trình về nguồn của Đảng ủy Học viện Chính trị Công an nhân dân vào những ngày tháng 7 năm 2025.

Thời gian tuần hoàn, tháng 7 lại đến với các hoạt động kỷ niệm ngày thương bình liệt sĩ 27/7 để tri ân và thể hiện đạo lý " uống nước nhớ nguồn". Mượn nén nhang tỏ niềm kính trọng, tri ân lớp lớp thế hệ cha anh vì độc lập, tự do Tổ quốc mà xả bỏ thân mình, dâng hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân. Nắng bỏng rát chảy từ ngã ba Đồng Lộc, trải dài đường Hồ Chí Minh, rực nóng nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nghĩa trang quốc gia Đường 9, nung bỏng nước sông Thạch Hãn, và rực lửa nơi Thành cổ Quảng Trị.

1. Hành trình từ bản hùng ca bi tráng nơi chiến trường rực lửa

Về nghĩa trang Đồng Lộc - Bồ kết tỏa bóng, nghiêng che 10 ngôi mộ trắng

Quyện tỏa trong khói nhang, nhập nhòa những ngôi mộ trắng, những hàng bia khắc ghi biết bao tên liệt sĩ. Các anh, các chị nằm lại đây, nghe tiếng reo vui, tiếng ca, tiếng hát về một thời mở đường trong khói lửa chiến tranh. Từng đoàn người lặng lẽ, thành kính dâng nén nhang tri ân, tiếp nối truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đồng thời tô đậm chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng cách mạng. Lá bồ kết xào xạc, vẳng trong hư không Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc.

“Mười bát nhang hương cắm thế đủ rồi  

Còn hương nữa hãy dành phần cho đất  

Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi  

Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc  

Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp  

Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi…”.  

(Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc – Vương Trọng)

Ngày 24/7/1968, sau trận bom thứ 15 khốc liệt, 10 cô gái đã đi vào huyền thoại, khắc những nốt nhạc vang vọng trong bản hùng ca bất tử. Hình ảnh “Túi bom”, “chảo lửa” được gán cho ngã ba Đồng Lộc những năm 1964 đến năm 1972. Nơi đây chính là điểm mút giao thông, kết nối hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Huyết mạch giao thông ấy là mục tiêu bắn phá, hủy diệt của đế quốc Mỹ. Cũng chính nơi đây, sức mạnh của ý chí, bản lĩnh dân tộc đã kết thành bản hùng ca bi tráng, tạc khắc tượng đài bất tử của những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi.

Theo ghi chép, chỉ tính từ tháng 4/1968 đến tháng 10/1968, địch đã ném gần 50.000 quả bom các loại xuống Ngã ba Đồng Lộc nhằm phá hủy con đường vận tải chiến lược của quân ta. Hơn 1.000 thanh niên xung phong, dưới sự yểm trợ của các đơn vị pháo cao xạ và công binh quân khu, thực hiện nhiệm vụ phá bom, làm đường, thông tuyến. Từ cầu Cơn Bạng đến Khe Giao, máu, xương hòa lẫn trong bùn đất, quyết không để đứt gãy giao thông. Sau mỗi đợt ném bom, các thanh niên xung phong lại khẩn trương lấp hố bom, sửa đường, thông tuyến, “cho xe thẳng tới chiến trường”. Huyền thoại về 10 cô gái thanh niên xung phong thuộc Tiểu đội 4, Đại đội 552, Tổng đội 55 đã hóa thành những đóa hoa bất tử.

Những nén nhang lặng lẽ cuộn hương thành kính, tri ân lan tỏa không gian Đồng Lộc. Dấu vết hố bom vẫn còn đó như một chứng nhân lịch sử. Bên kia, cây bồ kết vẫn xanh, vẫn trổ đều quả như muốn chăm sóc, vuốt ve mái tóc cho các cô.

 

“Ngày bom vùi tóc tai bết đất  

Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được  

Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang  

Cho mọc dậy vài cây bồ kết  

Hương chia đều trong hư ảo khói nhang”.

(Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc – Vương Trọng)

Và còn đây, những tấm bia trắng ghi đậm dòng chữ: Võ Thị Tần (24 tuổi, Tiểu đội trưởng), Hồ Thị Cúc (24 tuổi, Tiểu đội phó), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi). Mười cô gái, tuổi đời còn quá trẻ, từ 17 đến 24. Máu của họ đã trộn vào đất, xương thịt họ đã quyện trong bùn. Họ đã ngã xuống cho đất nước liền một dải, cho Bắc, Nam sum họp, cho tiếng ca hòa bình vang vọng non sông. Đất trời Đồng Lộc đón và ôm trọn linh hồn họ, ngân vang điệp khúc “Cô gái mở đường”. Hương bồ kết thơm thoảng chiều nghĩa trang.

Đến nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn – cây Bồ đề ôm trọn đài tưởng niệm tinh thần yêu nước của người lính

Trên ngọn đồi Bến Tắt, thuộc địa phận xã Linh Trường, huyện Gio Linh (Quảng Trị), ở độ cao 32,4 m, đài tưởng niệm bằng đá trắng sừng sững vươn lên kiêu hãnh trong không gian mênh mông mộ chí chấp chóa ánh sao vàng. Nơi đây quy tụ 10.263 phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Họ đã đi với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Theo chân Bác – Tố Hữu). Bước chân họ dồn dập, tiếng hát, tiếng ca vang vọng trên dải Trường Sơn. “Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn/ Đá mòn mà đôi gót không mòn…/…Ta đi theo ánh lửa của trái tim mình… (Bước chân trên dải Trường Sơn - Vũ Trọng Hối) hay “Đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió/ Trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa/ Đi ta đi tung cánh đại bàng, vang khúc nhạc lòng giải phóng miền Nam”... Bằng trái tim, nhiệt huyết tuổi trẻ, bằng lý tưởng cách mạng và tinh thần yêu nước, ý chí, khát khao hòa bình, độc lập dân tộc, những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi đã viết lên một Trường Sơn bất tử. Với chất liệu đá trắng, đài tưởng niệm được thiết kế thiết kế ba mặt khuyết, ruột rỗng, tượng trưng cho sự mất mát, hy sinh nhưng cũng là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của dân tộc. Trời đất Trường Sơn như cảm thấu tâm người chiến sĩ, cây bồ đề tự mọc và sinh trưởng mạnh mẽ, tỏa bóng rợp đài tưởng niệm. Dường như có sự kết nối tâm linh, sự giao hòa giữa đất, trời, lòng người. Luồng gió nóng thổi qua, những chiếc lá bồ đề khẽ va vào nhau, kết nên âm hưởng Trường Sơn.

“Có một Trường Sơn
 nằm dưới ba thước đất
 đồng đội ru nhau dưới đáy rừng già
 đồng đội hát dội vào ngực đá
 Ta vượt lên đỉnh núi cao Trường Sơn
 đá mòn mà đôi gót không mòn”.

 

Nghĩa trang quốc gia Đường 9 – mộ chí chưa có tên

Trời trong vắt, bóng hàng cây đổ dài che đôi ba hàng mộ. Không gian tĩnh lặng, trang nghiêm. Khói nhang từ từ cuộn bay thẳng và hòa lẫn trong nắng chiều nghĩa trang. Gần 11.000 liệt sĩ nằm đây. Có mộ chí khắc ghi tên tuổi, nhưng có mộ chí chỉ để lại dòng chữ “mộ liệt sĩ chưa xác định được thông tin”. Ngày các anh đi, có tên, có tuổi, có hình hài, giờ nằm trong lòng đất mẹ, tên, tuổi, hình hài hóa thành hồn thiêng bất tử. Ánh sao vàng lấp lánh minh chứng cho một thế hệ anh hùng của một dân tộc anh hùng.

Hương tri ân, kính ơn tỏa bay trên các hàng mộ chí và dường như đọng lại, dừng lại tại một khu mộ “đặc biệt”, nơi đang yên nghỉ của khoảng 600 liệt sĩ. 8 ngôi mộ tập thể với kích thước lớn. Ngôi nhiều nhất có 123 liệt sĩ, các ngôi khác ít hơn, lần lượt 102, 80, 50, 30,.. ngôi ít nhất có 2 liệt sĩ. Các anh đã sống, đã chiến đấu và đã hy sinh trong tình đồng chí, đồng đội. Đâu cần phải gọi tên. Xương cốt của các anh giao hòa, khăng khít như muốn viết tiếp bản hùng ca về ý chí, về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

“Các anh từ mọi miền quê,
 bao nhiêu đơn vị, giờ về nằm đây…

Nghĩa trang đường Chín thành quê,
 Các anh yên giấc, bốn bề bình yên.
 Gối đầu lên dãy Trường Sơn,
 Chân xuôi Cửa Việt, rập rờn sóng xa”.

(Ghi ở nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 – Bs Lê Lợi)

Trở lại những năm từ 1965 đến 1972, Đường 9 là một con đường chiến lược nối liền từ biên giới Việt Lào về tới Đông Hà. Đây là tuyến đường đã đi vào huyền thoại của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Máu xương đã hòa trộn đất, nước nơi đây làm nên những chiến công hào hùng, oanh liệt. Theo dọc trục Đường 9, Mỹ - Ngụy đã cho xây dựng các căn cứ quân sự, các cứ điểm và lô cốt nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Tọa độ lửa với những trận chiến khốc liệt giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và thanh niên xung phong đã gieo nỗi ám ảnh, kinh hoàng cho binh lính Mỹ - Ngụy. Bản lĩnh Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, lý tưởng cách mạng rực sáng trên mặt trận Đường 9, trên đất Lào trong suốt cuộc kháng chiến cứu nước.  “Những dòng tên mãi khuất âm thầm…”, đã hòa “trong biển trời Tổ quốc”, vút bay thành khúc quân hành, để cất cao tiếng hát tự hào về Tổ quốc ta.

 

“Trập trùng đỉnh cao mây bay biên giới,

Tôi đang đứng đây gìn giữ đất trời bao la,

Tôi quốc đã trao cho từng tấc đất của ông cha”.

(Hát về Tổ quốc tôi – Hữu Xuân)

Những đóa hoa trên sông Thạch Hãn nối nhịp tới Thành cổ Quảng Trị

"Ðò lên Thạch Hãn… ơi chèo nhẹ
 Ðáy sông còn đó bạn tôi nằm
 Có tuổi hai mươi thành sóng nước
 Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm."

 (Lời người bên sông - Lê Bá Dương)

 

Không đơn giản chỉ là tên một dòng sông. Dòng chảy “Thạch Hãn” đã hòa trong trang sử oai hùng thấm đẫm máu và hoa của dân tộc. Trong nước sông Thạch Hãn, có xương, có thịt, có máu, có hồn, có ước mơ, lý tưởng, khát vọng của người chiến sĩ. Sách Ðại Nam nhất thống chí chép rằng: "Sông Thạch Hãn, từ nguồn Viên Kiều ở Bảo Trấn Lao (Lao Bảo) chảy về đông,… qua phía bắc tỉnh thành Quảng Trị thì mang tên sông Thạch Hãn, đến ngã ba cổ Thành chia làm hai nhánh. Một nhánh chảy lên đông bắc đến ngã ba Phú Ông, gặp sông Ái Tử (Vĩnh Phước) ở phía tây chảy vào, qua huyện Ðăng Xương (tức huyện Triệu Phong ngày nay), rồi ngã ba Ðại Ðộ gặp sông Ðiếu Ngao (sông Ðiếu Ngao qua cửa Ðiếu Ngao, đến xã Cam Lộ thì gọi là sông Cam Lộ), rồi qua ngã ba Giáo Liêm đổ ra Cửa Việt. Một nhánh chảy xuống đông nam, chảy vào sông Vĩnh Ðịnh, gặp sông Nhùng (Mai Ðàn) từ phía tây tới, rồi theo hướng nam tới huyện lỵ Phong Ðiền thì gặp sông Ô Lâu (Thác Ma), sau đó chảy ra phá Tam Giang".

 

Dọc theo dòng chảy uốn lượn từ phía đông và đông bắc của sông Thạch Hãn, dừng bước tại khúc sông chảy qua thị xã Quảng Trị được ví như con hào thiên tạo ở phía bắc Thành cổ Quảng Trị, nơi đây đã ghi lại những trang sử bi tráng của quân và dân ta. Tám mươi mốt ngày đêm giữ vững Thành cổ trước cuộc phản kích tái chiếm tỉnh Quảng Trị của quân Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, dòng sông Thạch Hãn trở thành con đường tiếp tế nhân lực, vật lực chủ yếu cho mặt trận Quảng Trị. Để ngắt, chặn con đường tiếp tế đó, địch điên cuồng ném bom bắn phá. Mưa bom, bão đạn dội xuống mảnh đất Quảng Trị, xuyên qua mặt sông Thạch Hãn, găm trên mình chiến sĩ, những chàng trai tuổi 18, đôi mươi sẵn sàng gác lại ước mơ nơi giảng đường đại học để đi theo tiếng gọi non sông. Không sờn lòng, quyết bám trận địa, quyết giữ Thành cổ, lớp người này nằm lại, lớp người khác đến thay. Những chiến sĩ tuổi đôi mươi ấy đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sĩ ta giành được ở Thành cổ Quảng Trị thực sự là một mét vuông máu".

 

“Tám mốt ngày đêm cháy đỏ trời hè

Thành cổ tan hoang ngút ngàn bom đạn nổ

Mỗi mét vuông đất, mỗi mét vuông máu đổ Sắt thép chảy tan…, trụ vững những con người”.

(Về Thành cổ - Nguyễn Hữu Lai)

Huyền thoại về dòng sông Thạch Hãn, huyền thoại về Thành cổ Quảng Trị ngân dài bản hùng ca bất tử. Lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, bản lĩnh người lính Trung đội Mai Quốc Ca anh hùng với trận đánh lừng danh ở phía bắc bờ sông Thạch Hãn đã khắc tạc những dấu son lịch sử về lòng dũng cảm, về sự chiến đấu ngoan cường quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

 

Vang vọng bản hùng ca bi tráng. Những nốt nhạc ngân dài từ ngã ba Đồng Lộc, đường mòn Hồ Chí Minh với dãy Trường Sơn trập trùng, nhịp phách chùng lại nơi nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nghĩa trang quốc gia Đường 9 và dừng bên dòng sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị. Những đóa hoa thắm đỏ, những nén nhang thành kính, ngay ngắn trên mộ chí lấp lánh sao vàng thay lời biết ơn, tri ân những người chiến sĩ anh hùng. "Khi người lính lặng im tan vào đất/ Là cuộc đời chảy mãi những dòng sông/ Ôi dòng sông mang phù sa người lính/ Tươi mát bãi bồi xanh ngát nương dâu". (Dòng sông hoa đỏ - Nguyễn Hữu Quý, Võ Thế Hùng).

 

2. Đến Kỷ nguyên phát triển của dân tộc

Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau, niềm tự hào, ký ức chiến tranh còn hiện diện trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước. Những hàng mộ trắng xếp đều tăm tắp, chạy dài trong những khu nghĩa trang liệt sĩ. Ánh sao vàng trên mộ chí lấp lánh, nhập nhòa trong hư ảo khói nhang. Hơn một triệu liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập của dân tộc… Hơn một triệu khát vọng, ước mơ tuổi trẻ vĩnh viễn ở lại chiến trường xưa để cùng viết tiếp bài ca độc lập, ước vọng hòa bình, đất nước phồn vinh, Việt Nam hùng cường. Trên những hàng mộ chí, còn nhiều lắm những ngôi mộ thiếu thông tin. Và còn nữa nơi ngọn núi, rừng cây, sông, suối, những liệt sĩ chưa được quy tập. Nhiều, rất nhiều gia đình vẫn ngày đêm mong ngóng tin tức liệt sĩ, hy vọng và thầm nhắn nhủ các anh. “Về thôi anh, chiến tranh đã lùi xa/ Phía trời Đông, bình minh lên rực rỡ./ Về thôi anh không còn tiếng súng nổ./ Giặc tan rồi, cả nước đã hoan ca”. Ước vọng tìm kiếm, đưa các anh về với gia đình là tâm nguyện của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Ngày 14/9/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1515/QĐ-TTg về Kế hoạch tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Phấn đấu đến năm 2030, quy tập được 15.000 hài cốt liệt sĩ. Để tri ân những hy sinh của thế hệ cha anh, nhiều chính sách thấm đẫm nghĩa tình “đền ơn đáp nghĩa” đối với thương binh, liệt sĩ được Đảng, Nhà nước trân trọng. Những chiến trường xưa, những “túi bom”, “tọa độ lửa”… năm nào nay trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ, đồng thời, cũng là điểm tựa vững chắc cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển “vươn mình” của dân tộc Việt Nam.

 

Có thể nói, Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là bước ngoặt lịch sử với những tư duy chiến lược đột phá đặt trên nền tảng chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu duy nhất Đảng, Nhà nước, nhân dân kiên định hướng đến. Đây cũng là kỷ nguyên “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”[1]. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, rất cần khơi dậy, lan tỏa tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và bản lĩnh: tự lực, tự chủ, tự cường, tự tôn và tự hào dân tộc. Biến sức mạnh, nội lực vô giá đó trở thành hành trang để nước Việt Nam vững vàng, tự tin tiến bước.

Lớp lớp cha anh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Kỷ nguyên độc lập, tự do đã đặt nền móng vững chắc cho Kỷ nguyên đổi mới và phát triển, đồng thời tạo đà vươn mình cho kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Sức mạnh đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng cách mạng và bản lĩnh Việt Nam đã được các thế hệ cha anh gìn giữ, viết nên những bản hùng ca bất tử, ngân dài từ chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, chảy dọc theo đất nước, và kết thúc bằng khúc ca khải hoàn “Như có Bác trong ngày vui đại thắng”./

 

Thượng tá,TS Nguyễn Tuyết Lan

Khoa Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học

 

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website