Ở cấp huyện, trong số 707 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay, có 57 đơn vị hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với phòng nội vụ; 52 đơn vị hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra cấp ủy với thanh tra chính quyền cùng cấp; 23 đơn vị hợp nhất ban tuyên giáo với ban dân vận và trung tâm bồi dưỡng chính trị; 3 đơn vị hợp nhất ban tuyên giáo với ban dân vận; 70 đơn vị hợp nhất văn phòng cấp ủy với văn phòng hội đồng nhân dân và văn phòng ủy ban nhân dân; 58 đơn vị thực hiện cơ quan tham mưu giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; 457 đơn vị thực hiện mô hình trung tâm phục vụ hành chính công, thực hiện “cơ chế một cửa”, “cơ chế một cửa liên thông” và thực hiện “5 tại chỗ”.
Thí điểm kiêm nhiệm chức danh
Ở cấp tỉnh, có 23 tỉnh thực hiện trưởng ban dân vận tỉnh ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; 1 tỉnh (tỉnh An Giang) thực hiện trưởng ban tổ chức tỉnh ủy đồng thời là giám đốc sở nội vụ.
Ở cấp huyện, có 639/707 đơn vị thực hiện trưởng ban tuyên giáo cấp ủy đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị; 445 đơn vị thực hiện trưởng ban dân vận cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 108 đơn vị thực hiện trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là trưởng phòng nội vụ; 76 đơn vị thực hiện chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy đồng thời là chánh thanh tra huyện. Mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp được thực hiện tại 37 đơn vị cấp huyện, 1.072 đơn vị cấp xã.
Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thôn, tổ dân phố
Theo tiêu chuẩn quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13, ngày 25-5-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII, “Về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính”, cả nước có 19 đơn vị hành chính cấp huyện, 631 đơn vị hành chính cấp xã thuộc diện phải sắp xếp lại trong giai đoạn 2019 - 2021; đồng thời, có 3 tỉnh chủ động sắp xếp 10 đơn vị hành chính cấp xã thuộc diện khuyến khích và 1 tỉnh sắp xếp 1 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc diện khuyến khích. Các tỉnh, thành phố đã đề nghị chưa tiến hành sắp xếp trong giai đoạn này đối với 99 đơn vị hành chính cấp xã và 10 đơn vị hành chính cấp huyện thuộc diện phải sắp xếp.
Đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết sắp xếp 18 đơn vị hành chính cấp huyện, 1.025 đơn vị hành chính cấp xã của 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau khi sắp xếp đã giảm 6 đơn vị hành chính cấp huyện, 545 đơn vị hành chính cấp xã. Qua đó, sẽ giảm được 9.962 cán bộ, công chức; 6.913 người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Các địa phương đã hợp nhất để giảm 15.354 thôn, tổ dân phố; giảm 222.351 người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố so với năm 2015. Đã cơ bản khắc phục tình trạng thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng. Tính đến ngày 30-6-2019, chỉ còn 1.582 thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng, chiếm 1,58% tổng số thôn, tổ dân phố, giảm 810 thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng so với thời điểm 1-1-2016. Tình trạng trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không phải là đảng viên giảm nhanh. Tính đến ngày 30-6-2019, tỷ lệ trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố chưa là đảng viên là 31,84%, giảm 7,13% so với thời điểm 1-1-2016.
Tiết kiệm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển
Do giảm biên chế, năm 2019, kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã giảm khoảng 10.000 tỷ đồng; góp phần tăng chi cho đầu tư phát triển, giảm nợ công, đồng thời vẫn bảo đảm tăng lương cơ sở 7%/năm. Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2019 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước năm 2016 đạt 22,9%, năm 2017 đạt 25%, năm 2018 đạt 25,4%; năm 2019 đạt 26,6%; nợ công đã giảm (năm 2019 là 56,1% GDP trong khi năm 2016 là 64,6% GDP).
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tỷ trọng chi thường xuyên năm 2019 giảm 0,85% so với năm 2017 (tương ứng khoảng 14.000 tỷ đồng), trong khi vẫn bảo đảm tăng lương cơ sở, lương hưu, trợ cấp người có công 7%/năm;
tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng tương ứng 1,14%; chi trả lãi và viện trợ tăng gần 9.000 tỷ đồng/năm. Tỷ lệ nợ công so với GDP giảm 6,4%. Tính chung 2 năm, ngân sách nhà nước đã giảm chi khoảng 16.000 tỷ đồng do sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và đổi mới khu vực sự nghiệp công.
Theo tính toán của các địa phương, trong 5 năm tới (giai đoạn 2020 - 2024) dự kiến sẽ giảm chi ngân sách nhà nước sau khi sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã khoảng 1.431 tỷ đồng (gồm giảm chi tiền lương và phụ cấp khoảng 511 tỷ đồng; giảm chi hoạt động khoảng 920 tỷ đồng).
Những số liệu nêu trên là minh chứng cho những nỗ lực của cả hệ thống chính trị và thể hiện những chuyển biến tích cực, rõ nét do tính đúng đắn, kịp thời mà Nghị quyết đem lại. Theo đó, dù đã giảm nhiều số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trưởng, cấp phó các cấp song tổ chức bộ máy vẫn từng bước ổn định hoạt động, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cơ bản đáp ứng yêu cầu về khối lượng và chất lượng công việc. Trên bình diện cả nước, hầu hết các chỉ tiêu hằng năm của Quốc hội đề ra đều đạt và vượt, tình hình kinh tế - xã hội phát triển ổn định, khẳng định những đóng góp quan trọng của hệ thống tổ chức và đội ngũ nhân sự trong quá trình củng cố, kiện toàn bộ máy. Có thể ví đây là “cuộc cải cách có tính cách mạng” của nhiệm kỳ Đại hội XII trong sắp xếp tổ chức, tinh gọn tổ chức bộ máy, giảm mạnh biên chế mà nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng trước đó không thực hiện được. Các cơ quan, tổ chức đảng và cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, thậm chí đến cả tổ dân phố, khu phố, thôn, bản đều có những chuyển biến tích cực, toàn diện.
Những bài học rút ra để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ
Thứ nhất, cần có sự thống nhất cao, có tinh thần chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy các cấp, phát huy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng giữ vai trò quan trọng, quyết định đến thành công của sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đảng lãnh đạo trực tiếp công tác tổ chức cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm công khai, minh bạch trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong quá trình thực hiện, cần gắn việc rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức. Những cách làm hay, sáng tạo cần được khuyến khích, nhân rộng, tạo sức lan tỏa, đồng thời cần uốn nắn những việc chưa phù hợp. Những việc khó cần thực hiện thí điểm để tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm hoàn thành tốt mục tiêu; bên cạnh đó, phát hiện, nhân ra diện rộng những mô hình tốt.
Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế là việc khó, phức tạp và nhạy cảm, nên không chỉ cần chú trọng công tác tuyên truyền, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong hệ thống chính trị và nhân dân, mà còn phải thực hiện thận trọng, có bước đi vững chắc. Khi sắp xếp tổ chức bộ máy, nhiều người “mất chức” vì thực hiện chủ trương xóa các cấp lãnh đạo trung gian; nhiều người phải đảm nhận thêm những công việc mới; nhiều người phải chuyển sang vị trí công việc khó khăn hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, thậm chí có người mất việc do thuộc diện “dôi dư”. Điều đó đòi hỏi các cấp ủy, nhất là người đứng đầu phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, khách quan, công tâm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời, phải khắc phục cả hai thái cực đã xảy ra trong quá trình thực hiện là: Chủ quan, nóng vội, thiếu chín chắn, để xảy ra lộn xộn, hoặc khuynh hướng cầu toàn, “bình chân như vại”, trông chờ, ỷ lại, thiếu quyết đoán, không dám “đụng” đến tổ chức, con người vì sợ trách nhiệm, mất phiếu tín nhiệm.
Thứ hai, phải bảo đảm đồng bộ, thống nhất, liên thông trong hệ thống chính trị và hướng vào việc thực hiện tốt nhất nhiệm vụ chính trị của tổ chức.
Trong quá trình sắp xếp lại tổ chức, cần hướng mọi nỗ lực vào việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị song vẫn bảo đảm tính ổn định tương đối của tổ chức. Trên thực tế, mỗi khi hợp nhất, sáp nhập tổ chức thì cũng là lúc cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phải có sự thay đổi từ nhiệm vụ đến mối quan hệ công tác và phong cách, lề lối làm việc. Việc bảo đảm tính đồng bộ bao gồm nhiều việc, như xác định lại vị trí việc làm, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho cán bộ, công chức, viên chức để chủ động đáp ứng với yêu cầu mới, tránh được tình trạng sáp nhập cơ học, thậm chí phá vỡ tính hệ thống của tổ chức. Việc tái cấu trúc cơ cấu tổ chức phải gắn chặt với ứng dụng công nghệ thông tin, tinh giản biên chế trên cơ sở xây dựng vị trí việc làm. Cần xác định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân nhằm phát huy thế mạnh của mỗi thành viên trong tổ chức và sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình thực hiện.
Thứ ba, phải bằng các đề án, kế hoạch cụ thể, bố trí đủ nguồn lực cần thiết gắn với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Cấp ủy đảng các cấp phải xây dựng kế hoạch, đề án sắp xếp tổ chức bộ máy một cách khoa học, cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình phù hợp; xác định mục tiêu, tính hiệu quả, đối tượng thụ hưởng, nguồn lực thực hiện và phân công nhiệm vụ rõ ràng gắn với đề cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là của người đứng đầu. Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm gắn với cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức và xác định tổng biên chế cần có của địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị mang tính pháp lý, khá ổn định trong một giai đoạn nhất định, gắn với các chế tài xử lý vi phạm và công bố công khai. Đó là căn cứ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và tránh được sự tùy tiện đặt ra tổ chức, chức việc theo ý chí chủ quan của người đứng đầu vì lợi ích cá nhân. Đồng thời, cần bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc, quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung trên cơ sở bảo đảm theo đúng quy định của cấp có thẩm quyền, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân trong quá trình sắp xếp lại tổ chức.
Vấn đề lớn và rất khó khăn hiện nay là giải quyết chế độ, chính sách phù hợp đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhất là những người trực tiếp bị ảnh hưởng khi sắp xếp tổ chức và tinh giản biên chế. Đó là chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức tự nguyện thôi việc, nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu; chính sách đào tạo lại, bồi dưỡng nguồn nhân lực... để tạo động lực, khuyến khích thực hiện đề án. Thực tế cho thấy, lĩnh vực chậm chuyển đổi mô hình tổ chức, chậm đổi mới cơ chế quản lý thường có nguyên nhân về lợi ích của cá nhân và cơ quan chủ quản. Vì vậy, cần đẩy mạnh thực hiện đổi mới cơ chế quản lý để khuyến khích sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng xã hội hóa, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục đang chiếm số lượng rất lớn hiện nay. Trên thực tế, đã có trường hợp đơn vị sự nghiệp chuyển đổi mô hình theo hướng xã hội hóa thì ngay sau đó, nhiều viên chức nhanh chóng trở thành người lao động thu nhập thấp, việc làm bấp bênh, thậm chí mất dần việc làm, đời sống rất khó khăn, chưa nói đến cơ quan quản lý trước đây mất dần quyền lợi. Chính vì thế mà quá trình xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp rất chậm và khó khăn cho dù điều đó là tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết có vai trò quan trọng trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện của các cấp ủy. Mục đích của kiểm tra là để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện; động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân làm tốt; đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn những nơi làm chưa tốt. Vì thế, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai và tổ chức thực hiện tại đơn vị, địa phương, kịp thời phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của tập thể và cá nhân.
Năm 2019, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức 5 đoàn kiểm tra thực hiện các nghị quyết của Trung ương tại cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương và đã có tác dụng lớn. Qua kiểm tra, không chỉ biểu dương tập thể, cá nhân có cách làm hay, hiệu quả, mà còn là dịp để phát hiện, đôn đốc, nhắc nhở những nơi làm chậm, chưa đúng tinh thần của nghị quyết và uốn nắn những việc chưa phù hợp. Việc thực hiện nghị quyết còn gặp khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc chậm rà soát bổ sung, hoàn thiện một số quy định liên quan đến tổ chức bộ máy. Thực tế cho thấy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan chưa đồng bộ, thống nhất, thiếu cơ sở pháp lý, chưa phù hợp với thực tiễn, làm nảy sinh tư tưởng trông chờ cấp trên chỉ đạo mới làm. Ngược lại, cũng có nơi làm quá mạnh, nóng vội, điều này dẫn tới khả năng là nếu không tính toán cẩn thận mà đã tiến hành thực hiện đại trà, với quy mô lớn ở tất cả các địa phương, lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực, vùng, miền có những đặc thù... sẽ dễ gây ra tình trạng nhập vào rồi lại muốn tách ra hoặc “sáp” nhưng không “nhập”, thậm chí chỉ là sáp nhập cơ học, lấy thành tích mà không đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra./.
PGS, TS. NGUYỄN MINH TUẤN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn Tạp chí Cộng sản
------------------------------
(1) Số liệu trong bài viết này do Ban Tổ chức Trung ương chuẩn bị Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương