BÀI HỌC VỀ NẮM BẮT THỜI CƠ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG KỶ NGUYÊN PHÁT TRIỂN MỚI, KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

1. Bài học nắm bắt thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc cách mạng “long trời lở đất” đập tan ách đô hộ của phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới trong lịch sử: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả của ba thời kỳ vận động cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương: Cuộc vận động cách mạng dân chủ tư sản những năm 1930-1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh; cuộc vận động dân chủ những năm 1936-1939; cuộc vận động giải phóng dân tộc những năm 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi chỉ trong vòng hai tuần lễ chính là nhờ quá trình chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực và khi thời cơ xuất hiện, Đảng ta đã kịp thời nắm bắt, phát động toàn dân khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Nói cách khác, “mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ-đó là một trong những ưu điểm nổi bật của Cách mạng Tháng Tám”.

Một cuộc khởi nghĩa hoặc tổng khởi nghĩa muốn thắng lợi đòi hỏi phải hội tụ đủ những điều kiện bên trong và bên ngoài mà chúng ta gọi là điều kiện chín muồi. Thời cơ của tổng khởi nghĩa giành chính quyền chỉ xuất hiện khi mà tình thế cách mạng đã chín muồi, với những biểu hiện sau:

Thứ nhất, không những đội tiền phong mà cả đại bộ phận giai cấp cách mạng đã thấm nhuần sự cần thiết phải làm cách mạng và sẵn sàng dấn thân hy sinh vì cách mạng;

Thứ hai, các giai cấp trung gian ngả về hàng ngũ cách mạng;

Thứ ba, chính quyền của giai cấp thống trị đã lung lay bối rối đến tột độ. Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam vào mùa Thu năm 1945, có thể thấy thời cơ đã thực sự chín muồi và Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như Mặt trận Việt Minh đã biết chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một” để phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước giành thắng lợi.

Ngay từ tháng 02-1942, khi viết tập diễn ca Lịch sử nước ta, đề cập tới yếu tố thời cơ của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: Năm 1945, Việt Nam độc lập. Lời tiên đoán đó của Người được đưa ra dựa trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học và biện chứng khả năng phát triển của tình hình trong nước và thế giới.

Quá trình xác định thời cơ phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước Tháng Tám năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đánh giá cao mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương với cuộc chiến tranh của các nước Đồng minh chống phát xít; luôn coi trọng cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương đã nhận định: “Mặc dù tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa được chín muồi”[1]. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước rộng khắp với những hình thức đấu tranh phong phú và cao hơn giai đoạn trước. Có thể nói, với bản Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, cách mạng Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới-thời kỳ tiền khởi nghĩa. Tại nhiều địa phương trong cả nước, các cuộc khởi nghĩa từng phần đã liên tiếp nổ ra, hoạt động tuyên truyền, động viên quần chúng nhân dân tham gia và ủng hộ Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy mạnh.

Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ diễn ra trung tuần tháng 4-1945 nhận định: Lúc này chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị lịch sử này cũng đã quyết định nhiều vấn đề quân sự quan trọng như: Thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân, phân chia các chiến khu, cử Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ...

Trên chiến trường châu Âu, tháng 5-1945 phát xít Đức đã bại trận và đầu hàng Đồng minh; tại châu Á, quân phát xít Nhật cũng đang bị đẩy lùi dần về thế phòng ngự chiến lược. Từ ngày 7-7 đến ngày 02-8-1945, tại Pốtxđam đã diễn ra một cuộc họp quan trọng giữa những người đứng đầu ba nước Liên Xô, Mỹ và Anh bàn về vấn đề nước Đức và phối hợp đẩy mạnh nỗ lực tiêu diệt nốt các đạo quân phiệt Nhật Bản. Ngày 6-8-1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hirôsima (Nhật Bản). Hai ngày sau, Liên Xô tuyên bố hủy bỏ Hiệp định trung lập đã ký với Nhật Bản năm 1941 và chính thức tuyên chiến. Trước tình hình đó, đêm 9-8, Hội đồng tối cao chỉ đạo chiến tranh của Nhật Bản đã nhóm họp nhằm tìm ra lối thoát. Giữa lúc sáu ủy viên của Hội đồng đang tranh cãi gay gắt xung quanh vấn đề nên hay không nên chấp nhận bản Tuyên bố Pốtxđam, thì Hồng quân Liên Xô đã mở cuộc tổng tiến công trên một phòng tuyến dài 4.800km, vượt qua Mãn Châu, áp sát đại bản doanh của đạo quân Quan Đông (Nhật Bản). Cùng thời điểm đó, Mỹ cho ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. Đêm 12-8, đài Cựu Kim Sơn phát đi bản tin thông báo tới các nước châu Á rằng Nhật Bản đã gửi thông điệp ngỏ ý chấp nhận bản Tuyên bố Pốtxđam của các nước Đồng minh. Mặc dù đây chưa phải là một bản tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện”, mà chỉ mới là “một đề nghị ngừng bắn”. Song, với tầm nhìn chiến lược nhạy bén, trên cơ sở phân tích một cách khoa học về thời cơ, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Nửa đêm 13-8-1945, từ đại bản doanh trong ATK Việt Bắc, bản Quân lệnh số 1 đã được phát đi. Trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng Hirôhitô thông qua làn sóng của Đài Phát thanh quốc gia chính thức tuyên bố “Chấp nhận bản Tuyên bố Pốtxđam để tránh đổ máu kéo dài”.

Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Tuyên bố đầu hàng của Nhật hoàng đã đẩy cuộc khủng hoảng ở nước ta lên tới đỉnh cao, tạo ra một thời cơ khách quan vô cùng thuận lợi cho cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi. Rõ ràng, thời cơ thuận lợi cho việc giành chính quyền của nhân dân ta đã mở ra, nhưng thời cơ đó chỉ tồn tại trong khoảng thời gian rất hạn hẹp. Lúc này, việc cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta có đi tới thắng lợi được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực vùng lên tự giải phóng của chính dân tộc ta.

Trước những diễn biến rất nhanh chóng của tình hình trong nước và thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam, ngày 13-8- 1945, ngay khi hay tin Nhật chuẩn bị đầu hàng Đồng minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh: Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính: Thống nhất-thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động, không bỏ lỡ cơ hội.

Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 14 và 15-8-1945 cũng khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới. Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc: a) Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính. b) Thống nhất-thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy. c) Kịp thời-kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”[2].

Hội nghị cũng ra chỉ thị phải thành lập ngay Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của toàn dân. Vào lúc 11 giờ đêm, ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa phát lệnh Tổng khởi nghĩa, ra bản Quân lệnh số 1, trong đó có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà...Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Lúc này, lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng nằm trong rừng sâu ATK Việt Bắc, nhưng vừa tỉnh dậy sau cơn sốt, Người đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”[3].

Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào trong hai ngày 16, 17-8-1945, sau khi tán thành và thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào sau khi Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ”[4].

Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng 20 ngày, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-8) và kết thúc trước khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pốtxđam (ngày 5-9). Trong khoảng thời gian này, chúng ta phải nhanh chóng nổi dậy giành lấy chính quyền ngay trước khi quân đội nước ngoài vào tước khí giới quân Nhật trong khoảng thời gian này. Nếu không có sự chuẩn bị từ trước, thì cuộc Tổng khởi nghĩa không thể thực hiện được.

Lịch sử đã chứng minh rằng, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám không tiến hành thành công vào thời điểm nào khác ngoài thời điểm trên. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 và sau ngày 5-9 đều không có khả năng thành công. Nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng thì sẽ khó khăn, vì chúng tuy có suy yếu, nhưng vẫn còn lực lượng để chống cách mạng. Ngược lại, nếu Tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi quân Anh (từ vĩ tuyến 16 trở vào và núp sau đó là Pháp đang quay trở lại nước ta) và từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc-quân Tưởng, tiếp đến là đế quốc Mỹ đã nhảy vào nước ta. Vì thế vấn đề thời cơ lúc này được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Phải nhanh chóng nắm bắt cơ hội, gấp rút hành động, tình thế diễn ra vô cùng thuận lợi nhưng cũng rất cấp bách

Thời cơ Tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong vòng hai tuần lễ, nhưng đó là “thời cơ vàng” mà Đảng Cộng sản đã chớp lấy lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước. Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm khi mà ở trong nước, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển lên đến đỉnh cao, quân đội Nhật Bản ở Đông Dương mất nhuệ khí, không còn chỗ dựa, nhiều đơn vị quân Nhật đã bị “trung lập hóa”; Chính phủ Trần Trọng Kim yếu thế; quân đội Anh, Pháp, Tưởng lại chưa kịp kéo vào. Với chính quyền mới giành được, nhân dân Việt Nam có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, đứng trên cương vị chủ nhà ngẩng cao đầu tiếp quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của các lực lượng Đồng minh chống phátxít.

Ngày 19-8 trong khi Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông thì tại Hà Nội, cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

2. Phát huy bài học về nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình an ninh, chính trị, kinh tế thế giới và khu vực bên cạnh những mặt thuận lợi tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Thế giới phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu như khủng bố, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo; Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, nguy cơ xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang ngày càng rõ nét; Kinh tế thế giới đối mặt nhiều yếu tố bất lợi do tác động kép của đại dịch COVID-19, xung đột Nga-Ukraine, xung đột Israel-Iran, bất ổn gia tăng tại Trung Đông. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải luôn phát huy tinh thần bất diệt của cách mạng tháng Tám, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ; luôn biết quan sát, nắm bắt tình hình; biết phân tích, dự đoán, chớp thời cơ và tận dụng thời cơ một cách hiệu quả để mang lại lợi ích to lớn cho đất nước góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Có thể nói những thành tựu của đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay đều có sự kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc kết qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có bài học về nắm bắt và chớp thời cơ của cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, để có thể phát huy hơn nữa bài học về nắm bắt thời cơ trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, nắm bắt thời cơ trong quá trình tham gia toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.

Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, xây dựng mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ thương mại với 230 thị trường trên thế giới, đàm phán, ký kết nhiều FTA thế hệ mới, trở thành mắt xích quan trọng trong các liên kết khu vực. Việc hội nhập, sâu rộng vào nền kinh tế khu vực, thế giới tạo ra cơ hội mở rộng các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, thu hút mạnh mẽ FDI và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào thị trường của các nước đối tác. Hội nhập sâu rộng tạo ra các cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế.

Hai là, tận dụng thời cơ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi mọi mặt đời sống con người trên toàn thế giới và tác động không nhỏ tới Việt Nam. Nhờ công nghệ số, chúng ta đã có nhiều bứt phá trong phát triển kinh tế-xã hội cũng như hội nhập quốc tế. Nền tảng số đã thúc đẩy các ngành kinh doanh cải tiến mô hình, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, giúp kinh tế-xã hội Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự hội tụ của công nghệ mới xuất hiện dựa trên nền tảng kết nối và công nghệ số, kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Việt Nam là quốc gia đi sau trong cuộc Cách mạng công nghiệp trước 4.0 nhưng đi cùng với thế giới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam cũng có lợi thế là đã quan tâm đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và có tiềm năng về nhân lực công nghệ số. Do đó, có thể đi thẳng vào công nghiệp 4.0, mà mất ít chi phí chuyển đổi. Đặc biệt, nếu tận dụng cuộc cách mạng này, Việt Nam có thể phát triển bứt phá, nhảy vọt, rút ngắn, đi thẳng vào hiện đại, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến khác. Cách mạng công nghiệp trước 4.0 là cơ hội quý báu mà Việt Nam cần nhanh chóng đón bắt để tranh thủ đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 

Ba là, phát huy có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.

Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Việt Nam ta tài nguyên phong phú, các nguồn lực trong dân còn rất dồi dào, các nguồn lực từ bên ngoài theo các dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo chính sách đối ngoại, hội nhập đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta là rất lớn; nhân dân Việt Nam cần cù, sáng tạo; con người Việt Nam yêu nước, thông minh; dân số Việt Nam đông, hơn 100 triệu người đứng thứ 15 thế giới, với mức thu nhập ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Chính những nguồn lực to lớn này góp phần quan trọng tạo nên thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới thời gian qua.

Bốn là, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của toàn dân, của con người Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam 95 năm qua dưới sự lãnh đạo cảu Đảng đã chứng minh hùng hồn, trong những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết, tinh thần đấu tranh, lao động, sáng tạo của nhân dân, của con người Việt Nam là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, Việt Nam đang có những thời cơ để tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.7

2. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994

3. Hồ Chí Minh-Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011,

Tống Văn Khuông

Phó Giám đốc Học viện Chính trị CAND

Nguyễn Văn Thông

Giảng viên Học viện Chính trị CAND



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.365.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.424-425.

[3] Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.196.

[4] Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 596

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website