1. Trên các sách báo khoa học của thế giới cũng như của Việt Nam, chúng ta bắt gặp khá nhiều định nghĩa, hay những quan niệm khác nhau về văn hóa. Tuy nhiên, dễ dàng nhận ra một điểm giống nhau quan trọng trong các quan niệm đó ở chỗ văn hóa là sự sáng tạo của con người, chỉ có ở con người và trong xã hội loài người.
Hoạt động lao động sản xuất, sự sáng tạo cùng những phát minh, sáng chế kỹ thuật và văn hóa chính là những tiêu chí phân biệt rõ rệt nhất, quan trọng nhất, bản chất nhất về sự khác biệt giữa con người và mọi con vật, dù đó là con vật có nguồn gốc phát sinh gần gũi với con người nhất và thông minh nhất. Do vậy, có thể nói, văn hóa là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu, hay là thuộc tính đặc trưng nhất, chỉ có ở xã hội loài người, có nghĩa là văn hóa mang tính người, mang tính xã hội. Chính vì thế, văn hóa không phải là thứ vốn có sẵn trong thiên nhiên và bất biến theo thời gian, cũng không phải là thứ mà khi mỗi con người mới được sinh ra đã có ngay trong bản thân mình.
Văn hóa biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong một xã hội; giữa con người trong một cộng đồng người của một xã hội cụ thể này với những con người trong các cộng đồng ở những xã hội cụ thể khác. Đặc biệt, cùng với sự vận động tiến lên không ngừng của xã hội, với khả năng cùng sức mạnh vô cùng to lớn của khoa học và công nghệ hiện đại trong việc cải biến thiên nhiên nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày càng đa dạng và ngày càng cao của con người thì văn hóa còn biểu hiện mối quan hệ bền chặt, không thể tách rời giữa con người với giới tự nhiên và với môi trường sống xung quanh mình.
Như vậy, văn hóa chính là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người biểu hiện trong các kiểu và trong các cách tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra được tích lũy lại trong quá trình con người tương tác với thiên nhiên và nhất là trong mối quan hệ với nhau trong xã hội.
Tất cả các sản phẩm văn hóa, kể cả những sản phẩm vật chất, vật thể lẫn những sản phẩm tinh thần, phi vật thể được loài người tạo ra trong các giai đoạn lịch sử khác nhau đều nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng và thiết yếu của con người. Nói về ý nghĩa và vai trò của văn hóa, Hồ Chí Minh đã từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Nói cách khác, văn hóa hình thành, thường xuyên được bổ sung, được làm giàu thêm và phát triển mạnh mẽ trong quá trình phát triển lịch sử của loài người để đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng và khác nhau của con người. Chính quá trình phát triển lịch sử ấy của mỗi dân tộc, của mỗi tộc người sẽ tạo nên những nét độc đáo và bản sắc rất riêng của văn hóa, không lặp lại ở các tộc người khác, ở các dân tộc khác. Trong tiến trình giao lưu giữa các tộc người và các dân tộc văn hóa của từng tộc người và từng dân tộc cũng được làm giàu thêm nhờ tiếp thu những tinh hoa và nét đặc sắc ở các nền văn hóa khác.
Cùng với các chức năng khác của văn hóa như chức năng xã hội (chức năng tổ chức xã hội và điều chỉnh xã hội), chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng giải trí, chức năng thẩm mỹ thì chức năng giao tiếp và chức năng ứng xử có quan hệ rất mật thiết với sự tu dưỡng, sự rèn luyện đạo đức của tất cả mọi người, từ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đến các công chức nói chung, trong việc thu phục và thuyết phục để giành lấy hay để tạo được niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân.
Nếu như chức năng nhận thức và chức năng giáo dục của văn hóa giúp con người nắm bắt, thấu hiểu ngày một sâu sắc hơn và từng bước chiếm lĩnh thế giới xung quanh mình thì chức năng giao tiếp và chức năng ứng xử thể hiện rõ rệt mặt đạo đức, mặt phẩm hạnh và mặt nhân cách của con người. Ở đâu có con người và có các hoạt động xã hội của con người, trước hết là hoạt động lao động sản xuất, thì ở đó có sự giao tiếp, có những cách ứng xử khác nhau giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên xung quanh mình.
2. Trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, quan hệ giao tiếp và ứng xử giữa người và người trong xã hội nhìn chung là khá đơn giản nhưng thật sự vô cùng trong sáng, tất cả đều vì lợi ích chung và sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc. Sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân và các lực lượng vũ trang cũng vì vậy rất chặt chẽ, thường được ví như môi với răng, như cá với nước. Nhân dân có niềm tin mãnh liệt và tuyệt đối vào phẩm chất tốt đẹp, vào sự hy sinh cao cả, vô bờ bến của con em mình trong các lực lượng vũ trang, vào tính chính nghĩa và vào tính tất thắng của sự nghiệp cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như trong các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới chống xâm lược từ phía Bắc và phía Tây Nam đã có vô vàn trường hợp nhân dân không hề đắn đo, không hề suy tính thiệt hơn, không quản phải hy sinh con em, nhà cửa, của cải, ruộng vườn, thậm chí cả bản thân mình, mặc dù có khi phải chịu sự tra tấn cực kỳ dã man của địch để bảo vệ cơ sở Đảng, bảo vệ bộ đội và các chiến sĩ công an. Nếu không có sự hy sinh vô bờ bến đó, nếu không có sự đùm bọc của nhân dân trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài hàng chục năm chống lại các kẻ thù xâm lược hung bạo cả xa lẫn gần thì chắc chắn đã không thể có những chiến thắng huy hoàng, vang dội, chấn động địa cầu để giành lại trọn vẹn giang sơn, thống nhất đất nước. Những tấm gương hy sinh vì dân, vì nước của chiến sĩ các lực lượng vũ trang đã củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào tính chính nghĩa của sự nghiệp cách mạng, vào sự tất thắng của cuộc chiến đấu lâu dài nhưng không cân sức của cả dân tộc trước các kẻ thù xâm lược. Những bài học rút ra từ các cuộc kháng chiến chống xâm lược trong thế kỷ XX về sự tin dân, được dân tin, hy sinh vì dân, làm mọi việc để được dân tin đã làm nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù sẽ không bao giờ là cũ, không bao giờ bị giảm hoặc mất giá trị.
3. Tuy nhiên, phải thẳng thắn mà thừa nhận rằng, sau khi nước nhà thống nhất, đứng trước vô vàn khó khăn về kinh tế và nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước cùng những biến động lớn trong lĩnh vực chính trị - xã hội trên thế giới, đặc biệt là sự tan vỡ quá nhanh và gần như đồng loạt của khối các nước xã hội chủ nghĩa, thì niềm tin của không ít người vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã bị ảnh hưởng, bị giảm sút nặng nề, sự hoài nghi do vậy cũng tăng lên.
Đường lối đổi mới rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta được nhân dân nồng nhiệt đón nhận đã mang lại những thành công bước đầu nhưng rất ngoạn mục. Tiếp đó, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định một cách chắc chắn đã mở ra những triển vọng không thể nào có dưới thời kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính thể chế kinh tế thị trường đã khơi dậy và huy động được mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo, tính năng động, sự độc lập, tự chủ; tinh thần đề cao tính hiệu quả; đã khắc phục ở mức độ đáng kể sức ỳ và tư tưởng ỷ lại nặng nề, thái độ trông chờ của các cá nhân vào tập thể, vào nhà nước đã tồn tại khá lâu trong thời bao cấp. Nền kinh tế ổn định, tốc độ tăng trưởng khá và đi lên; nền chính trị vững vàng hơn là tiền đề và điều kiện cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của đất nước đã từng bước lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân. Khi niềm tin của nhân dân được khôi phục và được củng cố thì đó sẽ là sức mạnh của chế độ khi đang phải đương đầu với những biến động bất thường, khó đoán định và khó lường về nhiều mặt mà cả thế giới và chính chúng ta cũng đang là những chứng nhân.
Cùng với những thành tựu quan trọng thu được thì những mặt trái của kinh tế thị trường ở nước ta cũng đã từng bước bộc lộ và ngày một rõ nét hơn. Những mặt trái đó đã ảnh hưởng và đang chi phối mạnh mẽ, thậm chí có nơi, có lúc rất đáng ngại, đối với các hành vi cùng các chuẩn mực đạo đức truyền thống lâu đời của dân tộc; làm méo mó các mối quan hệ, các cách ứng xử và cả cách giao tiếp của mọi tầng lớp trong xã hội với nhau. Chúng ta chấp nhận đi theo kinh tế thị trường để phát triển đất nước; do vậy không thể không chấp nhận, không tuân thủ các quy luật của nó, trong đó có quy luật tìm kiếm lợi nhuận. Mọi hoạt động của con người trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội rốt cuộc đều nhằm thu được lợi nhuận và lợi ích chính đáng để đáp ứng các nhu cầu bức thiết hằng ngày của mình cũng như để phát triển lâu dài của đất nước. Việc con người tìm kiếm lợi ích đã được C.Mác nói đến cách đây hơn một thế kỷ (chính xác là từ năm 1842) rằng, “tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ”.
Bên cạnh rất nhiều tấm gương tốt, rất nhân văn trong quá trình thực thi nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân, cá biệt vẫn còn những hiện tượng đáng tiếc đã xảy ra, như không thật sự công tâm, thiếu chuẩn mực, không đúng với tư cách người Công an nhân dân, chưa hết lòng “vì nhân dân phục vụ”, thậm chí là thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân. Việc không đối thoại thẳng thắn, không thật sự dân chủ với dân mà còn áp đặt khi giao tiếp với dân và không đi sâu tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân để ứng xử có lý, có tình, đúng pháp luật, nên đã dẫn đến những sai phạm không đáng có, thậm chí có những sai phạm rất nghiêm trọng.
Đáng tiếc nhất là đã có trường hợp, khi giao tiếp và ứng xử với những người vi phạm pháp luật, không ít trường hợp công an đã không tôn trọng nhân phẩm của họ như một nhân cách. Một con người - với tư cách một công dân - dù vi phạm pháp luật và đã bị bắt quả tang nhưng chưa bị kết án thì người đó vẫn được luật pháp bảo vệ; nhân cách của người đó vẫn phải được tôn trọng, nghĩa là không được phép lăng mạ, làm nhục hay dùng nhục hình đối với họ nếu như họ không cố tình dùng vũ lực để chống lại. Khi làm những việc tổn hại đến nhân cách của người khác thì nhân cách của chính người thi hành công vụ cũng không còn có thể được coi là trọn vẹn. Thật đáng tiếc là không phải ai cũng có thể tự ý thức được điều đó.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống không chỉ diễn ra trong xã hội, mà cũng từng xảy ra cả ở đảng viên trong các lực lượng vũ trang có sứ mệnh cao cả là của dân và vì dân như Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (tháng 10-2016), với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật”, đã chỉ ra rất kịp thời và rất trúng 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống trong đó có những biểu hiện liên quan trực tiếp đến những vấn đề vừa được nêu ra ở trên. Cụ thể là những biểu hiện như “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc trước những đòi hỏi chính đáng của nhân dân”; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn... để trục lợi; để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực”; “thao túng trong công tác cán bộ, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội”; “sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”.
Hơn lúc nào hết, lúc này mọi cán bộ và đảng viên, nhất là cán bộ và đảng viên trong các lực lượng vũ trang nhân dân, những người thường xuyên có trách nhiệm giao tiếp với nhân dân, cần nhận thức rõ các biểu hiện suy thoái về đạo đức và lối sống trong đội ngũ của mình mà Hội nghị Trung ương đã chỉ ra để có cách ứng xử thật sự có văn hóa với nhân dân; để xây dựng và giữ cho được mối quan hệ máu thịt với nhân dân, mối quan hệ vốn đã từng là sự đảm bảo cho những thắng lợi và thành công trong quá khứ. Giờ đây, nhiệm vụ xây dựng các chuẩn mực văn hóa đạo đức, tuân thủ và nhất là việc nâng cao trình độ văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử cho cán bộ và chiến sĩ Công an nhân dân để được nhân dân giúp đỡ, ủng hộ; để giữ vững được niềm tin của nhân dân vào sự tất thắng của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có vai trò đặc biệt quan trọng.
NGUYỄN TRỌNG CHUẨN