Phản bác các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước thì tham nhũng là một hiện tượng kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Dù có những cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng tựu trung lại có thể thấy, tham nhũng luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân; tham ô, tham nhũng có bản chất, nguồn gốc từ hành vi của những người có chức, có quyền (kể cả trong và ngoài khu vực nhà nước) đã lợi dụng chức, quyền đó cấu kết để tham ô, nhận hối lộ, hoặc không có chức, quyền nhưng có hành vi cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi.

Từ khi thành lập Đảng đến nay, cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng luôn gắn liền với quá trình xây dựng Đảng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới, công tác phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, khó khăn, vừa phức tạp, lâu dài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ: “Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời”[1]. Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục nhận định: “... tình hình thất thoát lớn tài sản xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, buôn lậu, đạo đức suy đồi... đang là những vấn đề nóng bỏng”[2]. Đến Hội nghị Trung ương 3 (khóa X), Đảng đã ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, mà tập trung là Hội nghị Trung ương 4, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”[3], là vấn đề nóng không chỉ gây bức xúc xã hội mà còn “làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”[4]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng,... xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành... đe dọa sự tồn vong của chế độ”[5]. Văn kiện Đại hội XIII đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng: “Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật. Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”[6]. Đảng ta cũng có những bước phát triển mới về phòng, chống tham nhũng, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham nhũng: “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”[7]. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Luật Phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và kế hoạch thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng... Trong đó, có các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công, như: trụ sở, trang thiết bị và phương tiện làm việc; tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng; xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng; vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng; trả lương qua tài khoản đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng...

Việt Nam đang kiên trì đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường đúng đắn mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, là khát vọng của nhân dân ta. Xã hội đó đã, đang và sẽ không bao giờ chấp nhận sự tồn tại của tham nhũng.

Tuy nhiên gần đây, trong khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thì các thế lực thù địch, phản động không ngừng xuyên tạc, bịa đặt những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phủ nhận những thành quả mà chúng ta đã đạt được. Chúng cho rằng ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng; cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất là “đấu đá nội bộ”, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng thành công. Mục đích của chúng không gì khác ngoài việc gây hoang mang, dao động, hoài nghi của xã hội về hiệu quả công tác chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối Đảng, Nhà nước và chế độ. Đây chỉ là một trong rất nhiều thủ đoạn thựchiện âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, áp đặt các giá trị tư sản phương Tây vào xã hội nước ta.

Thứ nhất, phải khẳng định dứt khoát rằng, đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc sự thật cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Vì, tham nhũng là hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, tham nhũng là vấn nạn toàn cầu mang tính phổ biến, không chỉ riêng có ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực. Khi còn tồn tại nhà nước và quyền lực nhà nước bị lạm dụng thì còn tồn tại tham nhũng. Điều đó có nghĩa, ở bất cứ chế độ xã hội nào, tham nhũng, suy thoái đều gắn với quyền lực bị thao túng, bị tha hóa. Vấn đề này đã được nhận thức rõ trong Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003: “…Tham nhũng là hiện tượng đang vượt qua các biên giới quốc gia và ảnh hưởng đến mọi xã hội và nền kinh tế …”.

Vì thế, luận điệu cho rằng: Ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng; do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra; tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng; tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… là những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn của các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị, chúng ta phải hết sức cảnh giác, đấu tranh và bác bỏ.

Thứ hai, khẳng định thành công của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về mặt quản lý nhà nước, Nhà nước tăng cường thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng và tích cực phát hiện, khởi tố, điều tra gần 20 nghìn vụ án. Nhiều vụ án tham nhũng lớn, có tổ chức được phanh phui và xử lý như: 12 đại án tham nhũng kinh tế từ năm 2012 đến 2022, liên quan đến nhiều cán bộ cao cấp, nhiều bộ ngành, địa phương trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước như: vụ Đinh La Thăng; đại án Vũ Nhôm; Phạm công Danh và vụ đại án tại VNCB; đại án AVG; đại án buôn lậu tại Công ty Nhật Cường; vụ Việt Á; vụ “thao túng thị trường chứng khoán xảy ra tại FLC; vụ “lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Tân Hoàng Minh; vụ “nhận hối lộ liên quan đến chuyến bay giải cứu” … Gần đây nhất đã khởi tố nhiều vụ án như: vụ Công ty AIC; bảo kê cho trùm buôn lậu xăng; Vụ nâng khống giá thiết bị xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai; vụ Vạn Thịnh Phát, vụ Đăng kiểm … Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 -2022 nêu rõ : “Trong 10 năm cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên , trong đó có 7390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, hơn 50 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 6 năm 2022, 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã bị kỷ luật, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 20 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo quyết liệt, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ án tham nhũng kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp với những mức án nghiêm khắc và nhân văn, tích cực thu hồi tài sản tham nhũng, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.

Có thể thấy rằng, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những bước tiến mạnh, đột phá trong cả nhận thức và hành động, đạt được những kết quả toàn diện, để lại dấu ấn tốt, được nhân dân cả nước ủng hộ, các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Khi Đảng đặt mục tiêu, nhân dân đòi hỏi và Đảng, Nhà nước làm quyết liệt như vậy, thì sao có thể gọi là “đấu đá nội bộ”. Từng ấy cán bộ cấp cao ở trung ương và địa phương, thuộc rất nhiều lĩnh vực, cả các tổ chức trong và ngoài nhà nước bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự chẳng lẽ chỉ thuộc vào một số “phe” nào đó như chúng bịa đặt ra. Ngoài việc xây dựng hoàn thiện pháp luật và tích cực phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, Đảng và Nhà nước còn đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng; tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát quyền lực; xây dựng bộ máy PCTN (các cơ quan thuộc khối nội chính, Ban Chỉ đạo PCTN, tiêu cực trung ương và cấp tỉnh); phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong phòng, chống tham nhũng.

Thực tế cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước...

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó cơ bản là do một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thực hiện chưa quyết liệt; công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng mới tập trung đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa lan tỏa đến cấp cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân; thể chế, chính sách, pháp luật về kinh tế - xã hội và trên một số lĩnh vực còn sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn. Việc thực thi pháp luật nói chung và thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước nói riêng chưa nghiêm; cơ chế kiểm soát quyền lực không đủ mạnh, chậm được hoàn thiện; hệ thống thanh tra, kiểm tra, kiểm toán có nơi, có lúc chưa thực sự hoạt động hiệu quả; công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; còn xảy ra tình trạng cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm; mô hình tổ chức các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng còn thiếu ổn định, quyền hạn chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao; phương tiện, điều kiện làm việc còn bất cập; việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng còn gặp nhiều khó khăn; chưa phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhân dân, báo chí và truyền thông trong phòng, chống tham nhũng...

Thời gian tới, để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa X; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các lực lượng chức năng cần quán triệt và thực hiện tốt một số quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, về mặt quan điểm, nhận thức, cần xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng; là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và của toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí hoặc bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.

Hai là, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật; củng cố và hoàn thiện cơ cấu, thể chế, phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, như: quản lý và sử dụng đất đai; khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân sách, mua sắm công, tài chính, ngân hàng; thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giáo dục, đào tạo và y tế...

Ba là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, từ đó tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng phải cổ vũ, động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”[8] như lời Bác Hồ đã căn dặn.

Bốn là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó chú trọng tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng phải thật sự liêm, chính, trong sạch, gương mẫu, trọng liêm sỉ. Thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả; xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có cơ chế, chính sách hữu hiệu để khuyến khích, khen thưởng và bảo vệ an toàn cho người phát hiện, tố cáo tham nhũng và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng; kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe, trừng trị để không xảy ra tham nhũng.

Khoa Triết học & CNXHKH, T03

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 17.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 247.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 196.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 2, tr.145.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 2, tr.146.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 419.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website