PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP TOÀN DÂN TỘC, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI THEO TINH THẦN CỦA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NGÀY 2/9/1945

Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên bố ngày 2/9/1945, là văn kiện “lập quốc”, bản “thiên cổ hùng văn” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Với tư tưởng bất hủ “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”, khẳng định chủ quyền quốc gia của một dân tộc và giá trị quyền con người của người dân một nước độc lập. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), giá trị to lớn của Tuyên ngôn độc lập vẫn tiếp tục thắp sáng, là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân vận dụng sáng tạo phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới.

 


1. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện ghi nhận thành quả to lớn nhất của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm1945. Đó chính là sự kết nối khí chất hào hùng và lòng tự tôn dân tộc, tiếp nối truyền thống cha ông từ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt đến Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Tuyên ngôn là một văn bản pháp lý hiện đại, ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, khẳng định địa vị pháp lý của nền độc lập và chủ quyền quốc gia với toàn thể thế giới, chứa đựng giá trị lịch sử to lớn: Thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự do và khát vọng hòa bình của dân tộc; khẳng định sức sống trường tồn của một dân tộc kiên cường không chịu khuất phục dưới ách ngoại bang; bản Tuyên ngôn là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền quốc gia dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” và sự khẳng định quyền con người, quyền bình đẳng và quyền được sống trong hòa bình, độc lập của mọi dân tộc; đồng thời là sự khẳng định những giá trị tiến bộ của nhân loại; Tinh thần của Tuyên ngôn độc lập thể hiện sự quyết tâm mạnh mẽ toàn dân tộc Việt Nam bảo vệ cho bằng được quyền tự do, độc lập. Tuyên ngôn độc lập đã trở thành kim chỉ nam, nguồn sức mạnh nội lực vững chắc để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam kiên cường đấu tranh, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm; trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN hiện nay.

2. Tổ quốc chính là quốc gia, đất nước mà tổ tiên đã để lại cho dân tộc[1]. Tổ quốc là phạm trù đặc biệt, thiêng liêng của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bảo vệ tổ quốc theo quan niệm của Lênin: “tất cả mọi người đều có quyền bảo vệ Tổ quốc”[2]. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với XHCN, bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chế độ, nhà nước XHCN, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ nhân dân, bảo vệ quốc gia - dân tộc. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam theo Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: Bảo vệ Tổ quốc XHCN không những là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh mạng..., trật tự, an toàn xã hội (TTATXH) và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Bảo vệ Tổ quốc được Việt Nam hiện nay mang tính toàn diện, mở rộng cực đại về chủ thể, không gian và phạm vi BVTQ. Trong đó, trách nhiệm BVTQ là của toàn dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội nhân dân (QĐND) và Công an nhân dân (CAND).

3. Mỗi quốc gia là một thực thể đa chiều phức tạp gồm các yếu tố tự nhiên, xã hội, vật chất và tinh thần. Sức mạnh tổng hợp quốc gia là một khái niệm quan trọng cả về lý thuyết lẫn thực tiễn trong nghiên cứu quốc tế. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Nghị quyết trung ương 8 (khóa XIII) của Đảng tiếp tục khẳng định về sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh toàn diện của các lĩnh vực trong đời sống xã hội; Chiến lược cũng khẳng định: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,... trong đó, nguồn lực bên trong là cơ bản, quyết định, nguồn lực bên ngoài là đột phá quan trọng”. 

Đối với dân tộc Việt Nam, sức mạnh tổng hợp của dân tộc theo tinh thần của Tuyên ngôn độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” đã được Đảng ta phát huy cao độ trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại, đạt thành tựu to lớn cho dân tộc hơn 90 năm qua, trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ hiện nay. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định, được đưa vào Nghị quyết Đại hội XIII: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” đã tạo nền tảng vững chắc, nâng cao sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam.

Nhận thức về sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc từ khi đổi mới đến nay có bước phát triển toàn diện lên tầm cao mới, tạo thế và lực để đất nước giành những thắng lợi to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp BVTQ. Sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các nguồn lực về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vị thế quốc tế… (bao gồm sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần); là khả năng, là nghệ thuật bố trí, sắp xếp, huy động kết hợp hài hòa mọi nguồn lực từ yếu tố con người và các yếu tố vật chất, tinh thần khác một cách khoa học, tinh tế tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn. Trong đó đại đoàn kết và lòng yêu nước là chất kết dính các thành tố khác để tạo ra sức mạnh tổng hợp hiệu quả và bền vững để bảo vệ và xây dựng đất nước; vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm tạo ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam; lấy sức mạnh tinh thần làm cốt lõi, xuyên suốt; lấy đại đoàn kết dân tộc làm động lực chủ yếu; lấy xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng, phát huy sức mạnh tổng hợp BVTQ. Đây là vấn đề có tính chất lý luận cũng như thực tiễn để phát huy sức mạnh đó trong sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN hiện nay.

   4. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đang được tiến hành trong bối cảnh quốc tế mới đan xen, phức tạp nhiều vấn đề. Những điểm nóng chiến tranh, xung đột trên thế giới hiện nay như vấn đề Nga - Ucraina, vấn đề Trung Đông,… cho thấy những mâu thuẫn về lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo, lợi ích quốc gia vẫn luôn âm ỉ cháy và rất dễ bùng nổ thành xung đột, chiến tranh và cũng cho thấy rằng nền hòa bình thế giới đương đại hiện nay rất dễ bị tổn thương. Vấn đề tội phạm xuyên quốc gia, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bị xâm phạm, sự lây lan của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, sự phát triển nhanh chóng, khó lường, khó dự báo của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến chúng ta phải đối phó ngày càng phức tạp hơn với những thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống thống mang tính toàn cầu tác động mạnh đến cục diện quan hệ quốc tế, làm thay đổi những vấn đề cơ bản trong quan hệ quốc tế như độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Trong nước, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục gia tăng hoạt động chống phá Việt Nam, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Cùng với đó, sự nghiệp BVTQ, bảo vệ ANQG đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có những thách thức mới chưa từng có: Bốn nguy cơ mà đảng chỉ ra giữa Hội nghị giữa nhiệm kỳ 1994 còn tồn tại, có mặt khắc phục từng bước, nhưng có mặt gay gắt hơn, những thách thức đối với ổn định chính trị, xã hội mà trực tiếp nhất là đe dọa vai trò, sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng tư tưởng của Đảng… ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Trong trạng thái đó, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ANQG phải giải quyết bài toán với nhiều ẩn số phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước để trở thành ngọn cờ quy tụ các nguồn sức mạnh thành phần như “trăm sông đổ về một biển”. Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy, giữ nước từ thời bình được Đảng nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn trong quá trình đổi mới, về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Vận dụng những giá trị to lớn của Tuyên ngôn độc lập để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề sau:

Một là, kiến tạo thành trì sức mạnh tinh thần thông qua khơi dậy mạnh mẽ khát vọng độc lập - tự do, xây dựng đất nước hùng cường, nhân dân hạnh phúc, tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới

Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng thiêng liêng của dân tộc, là ngọn cờ dẫn dắt toàn thể dân tộc khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và trí tuệ con người Việt Nam, là nội dung cốt lõi trong sức mạnh chính trị, tinh thần, động lực cho tất cả các nhân tố khác làm nên sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc. Tuyên ngôn độc lập là sự đúc kết, phát triển cao độ của tư tưởng và truyền thống yêu nước bất khuất, hội tụ khí phách, của dân tộc Việt Nam.

Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[3]. Nền độc lập mà dân tộc Việt Nam muốn có được là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn trên tất cả các mặt, sự toàn vẹn lãnh thổ, quan trọng nhất là độc lập độc lập hoàn toàn về chính trị; phải thực hiện được ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Đó còn là độc lập, tự do cho mỗi quốc gia, dân tộc trong lựa chọn con đường phát triển của chính dân tộc mình. Đối với dân tộc Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vấn đề cốt tử; là mục tiêu, lý tưởng, là con đường của cách mạng Việt Nam để thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”[4].

Khát vọng ấy đã biến thành niềm tin, ý chí sắt đá để thực hiện lý tưởng và hiện thực hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ BVTQ hiện nay; là điểm tựa cho những khát vọng về một nước Việt Nam hùng cường, trường tồn và mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc Việt Nam. Như Tổng Bí Thư Tô Lâm khẳng định: “Kỷ nguyên mới với các định hướng chiến lược lớn của Đảng, tạo sự phát triển vượt bậc, bứt phá, tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực, hiện thực hóa khát vọng xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu; mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc…”[5]. Mục tiêu chiến lược thể hiện quyết tâm, nỗ lực chính trị rất lớn của Đảng, Nhà nước cho một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh.

Tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc là cơ sở để phát triển toàn diện tư duy về chiến lược BVTQ trong tình hình mới. Chiến lược BVTQ Việt Nam XHCN theo quan điểm của Đảng mà cốt lõi là chủ động BVTQ trong thời bình, từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là bước phát triển lên tầm cao mới của tư duy lý luận. Chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc XHCN là những định hướng chiến lược trong xác định mục tiêu, đề ra quan điểm, phương châm, phương thức, sức mạnh, lực lượng bảo vệ BVTQ. Nghị quyết 44-NQ/TW của Đảng điều chỉnh, bổ sung mục tiêu chung về BVTQ như sau: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới; bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (TTATXH),… giữ vững, củng cố, tăng cường môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào giữ gìn hòa bình khu vực, thế giới”. Có thể thấy tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc mang tính toàn diện, mở rộng về nội hàm từ độc lập về lãnh thổ đến độc lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, độc lập, tự do về chính trị, kinh tế, văn hóa… Trong đó, hạnh phúc luôn luôn thuộc về người dân, bảo vệ nhân dân là nội hàm quan trọng trong chiến lược BVTQ của Đảng.

Hai là, tăng cường củng cố, xây dựng và phát huy mạnh mẽ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “nước lấy dân làm gốc” làm nền tảng, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh của toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Truyền thống đoàn kết là nhân tố nổi bật, cội nguồn quyết định sống còn sự thành bại sự nghiệp đấu tranh BVTQ của lịch sử dân tộc Việt Nam ngàn năm qua. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh tinh thần làm trụ cột trong sức mạnh tổng hợp là nhiệm vụ có tính chiến lược, xuyên suốt. Trong Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyết tâm đoàn kết, gắn bó của toàn dân để bảo vệ nền độc lập, tự do. Tại buổi lễ đặc biệt kỷ niệm một năm ngày Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh xúc động nói: "Chính là sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của toàn thể nhân dân chúng ta đã khai sinh ra nước Cộng hòa của mình"[6].

Kế thừa tinh thần của Tuyên ngôn độc lập, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hàng Trung ương Đảng về tăng cường truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết trong giai đoạn mới với thông điệp mạnh mẽ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là đường lối chiến lược xuyên suốt của Đảng; là nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” góp phần quan trọng để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Trong bài phát biểu của Tổng Bí Thư Tô Lâm ngày 18/6/2025 tại Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định: “Với tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng, chúng ta kiên quyết giữ vững và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là “mạch nguồn”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, bảo đảm mọi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước được thực hiện triệt để, nhất quán, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất mọi nguyện vọng chính đáng của Nhân dân”[7]. Đại đoàn kết trở thành động lực phát triển bền vững cho công cuộc đổi mới toàn diện, sự nghiệp xây dựng và BVTQ thời ký mới.

Vì vậy, cần phải tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; cơ chế, chính sách để phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng đồng bộ, toàn diện từ đoàn kết trong Đảng “Phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư” [8] đến đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu cấp bách, thường xuyên liên tục trong sự nghiệp BVTQ. Đặc biệt cần có cơ chế, chính sách cho đồng bào sống và làm việc tại nước ngoài phát huy tinh thần yêu nước, phụng sự Tổ quốc, gắn lợi ích của nhân dân với lợi ích dân tộc.

“Nước lấy dân làm gốc” là một trong những nội dung sâu sắc và độc đáo của triết lý BVTQ Việt Nam truyền thống, được bổ sung, phát triển và trở thành cội nguồn tư tưởng quan trọng cho tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát huy cao độ tinh thần “nước lấy dân làm gốc” của dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức và Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Qua đó tạo dựng cơ sở, củng cố tiềm lực quân sự phòng lúc đất nước lâm nguy; phải tin dân, dựa vào dân để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh toàn dân để bảo vệ Tổ quốc.

Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế càng được Đảng ta sử dụng linh hoạt và sáng tạo. Điểm mới ở đây là Đảng đã bổ sung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí” và “kết hợp với sức mạnh thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” hiện nay. Đại hội XIII của Đảng đã xác định “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[9]. Hai yếu tố sức mạnh đó phát huy trong sự gắn kết hữu cơ để tạo nên sức mạnh tổng hợp ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chiến lược của đất nước.

Ba là, phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc tạo sức mạnh “nội lực” của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới

Tinh thần tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần tự lực, tự cường và coi đó là phương châm hành động của cách mạng Việt Nam: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[10]. Đó là sự chủ động và sáng tạo về chính trị, về xác định và hoạch định đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng.... Tuyên ngôn độc lập là sự ghi nhận mẫu mực chiến thắng cách mạng tháng Tám năm 1945 dựa trên tinh thần chủ động, sáng tạo, sức mạnh tự lực, tự cường, khẳng định chính quyền về tay nhân dân, nhân dân là người làm chủ đất nước, là tuyên bố về quyền nhân dân lựa chọn con đường độc lập.

Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, với những nhiệm vụ chính trị mới. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[11]. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực là sức mạnh nội sinh đóng vai trò quyết định, là cơ sở tranh thủ ngoại lực.

Kiên định quan điểm độc lập, tự chủ; bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong tình hình mới. Thực hiện sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” chủ động, linh hoạt và kịp thời giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và đẩy mạnh hội nhập quốc tế phù hợp với từng thời điểm, tình huống. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: “phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”[12], với mục tiêu Với mục tiêu chiến lược xây dựng: “Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn cho toàn nhân loại”. Coi trọng và xử lý đúng đắn, linh hoạt quan hệ giữa các nước lớn, dựa trên vị trí địa chiến lược của đất nước và lợi ích chiến lược của quốc gia. Kiên định thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” trong quan hệ quốc phòng của Việt Nam, cảnh giác, ngăn ngừa sự thỏa hiệp giữa các nước liên quan đến chủ quyền, lợi ích của Việt Nam, chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc. 

Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị làm trung tâm tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần làm cốt lõi, xuyên suốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới 

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định cho thắng lợi của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Tăng cường năng lực lãnh đạo cách mạng là sự khẳng định vị thế, sức mạnh cầm quyền, nâng cao sức chiến đấu góp phần củng cố và tạo nên uy tín, danh dự của Đảng và của cả hệ thống chính trị. Trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối chính trị khoa học, đúng đắn, không ngừng bổ sung và phát triển chiến lược BVTQ trong tình hình mới; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng sức mạnh quốc phòng, an ninh, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân... Qua đó phát triển lý luận BVTQ, đặc biệt nhấn mạnh xây dựng lực lượng Quân đội, Công an dựa với mục tiêu “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” đáp ứng mục tiêu, yêu cầu BVTQ trong tình hình mới.

Ngày 18/7/2025, khai mạc Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu, xác định cho được mục tiêu tổng quát và các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ tới của Đại hội XIV, trong đó với nhiệm vụ chiến lược BVTQ chúng ta phải “đưa ra những định hướng lớn về bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc trong bối cảnh mới”[13]. Có thể khẳng định rằng những nhiệm vụ chính trị hết nặng nề, cũng vô cùng vẻ vang của Đảng, Nhà nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được đặt ra cấp thiếp hơn nữa.

Để đảm bảo năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và chiến đấu của Đảng và hệ thống chính trị trong sự nghiệp BVTQ khó khăn, phức tạp hiện nay. Yêu cầu mang tính chiến lược là đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Nhiệm vụ của Đảng và hệ thống chính trị phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức đạo đức, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng, chỉnh đốn, ngăn chặn… củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng và cả hệ thống chính trị hiện nay là hết sức quan trọng củng cố, tăng cường sức mạnh chính trị - tinh thần cho sự nghiệp BVTQ. Cũng tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (Khóa XIII), Tổng Bí Thư Tô Lâm góp ý cho Dự thảo báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng cần tập trung vào phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIV, đặc biệt chú ý đến mô hình tổ chức, năng lực cán bộ theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp; đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới. Đó là những vần đề rất mới, rất cấp thiết chuẩn bị cho những nhiệm vụ chính trị mới của Đảng trong chiến lược xây dựng và BVTQ hiện nay.

Năm là, phát huy vai trò nòng cốt, xung kích của lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân, lấy xây dựng “thế trận lòng dân”, đẩy mạnh phong trào “toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đối ngoại nâng cao sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc

Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN có tính chất toàn diện, thống nhất và mối quan hệ chặt chẽ trong một chỉnh thể thống nhất không tách rời phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Với quyết tâm: “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” của Tuyên ngôn độc lập nhằm phát huy tổng hợp sức mạnh vật chất - tinh thần to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vận dụng, phát triển cao độ trong sự nghiệp BVTQ trong tình hình mới.

Hoạt động quốc phòng, an ninh nhằm tăng cường, củng cố sức mạnh quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu khách quan trong sự tồn tại, phát triển của mọi quốc gia dân tộc. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân (QPTD), của nền an ninh nhân dân (ANND) là sức mạnh tổng hợp của quốc gia trên tất cả các lĩnh vực xã hội từ quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, đối ngoại. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được Đảng xác định là lực lượng vũ trang nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ, sự nghiệp đổi mới; bảo vệ nền văn hoá và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình khu vực và thế giới.

Kết hợp các nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, xây dựng, củng cố thế trận QPTD gắn với thế trận ANND chặt chẽ trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, là nền tảng “gốc rễ”, nghệ thuật đặc sắc, là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến lợi ích cốt lõi quốc gia - dân tộc, yếu tố quyết định tạo nên thế trận liên hoàn, toàn diện, rộng khắp, tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta để BVTQ hiện nay, sinh mệnh và sự sống còn của Đảng, Nhà nước và Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”[14]. Các quan đim của Đảng về bảo vệ ANQG, xây dựng thế trận ANND kết hợp chặt chẽ với thế trận QPTD được thế chế hóa trong các văn bản pháp quy do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng ban hành.

Tiếp tục tăng cường mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa CAND với QĐND, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị tạo ra sức mạnh tng hợp, trong đó cần phát huy vai trò to lớn của nhân dân với tinh thần bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh trật tự. Xây dựng các nền và thế trận ANND, thế trận QPTD đặc trưng vì dân, của dân, do dân th hiện truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước, giữ nước vĩ đại của dân tộc; đòi hỏi phải luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của dân, là đặc trưng của đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác phối hợp giữa lực lượng CAND với QĐND, chấp hành nghiêm Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ về “Phi hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chong tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng”. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, giải quyết tốt vấn đề xây dụng thế trận ANND và xây dựng thế trận QPTD.

Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp xây dụng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh T quốc góp phần quan trọng xây dựng thế trận ANND vững chắc, toàn diện, phát huy được hiệu quả một cách đồng bộ, bền vững đảm bảo cho sự nghiệp BVTQ. Sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tạo thành “thế trận lòng dân”, từ phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước tạo ra sức mạnh vật chất - kỹ thuật - tinh thần cho sự nghiệp BVTQ của chúng ta đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Mối quan hệ giữa củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội là mối quan hệ biện chứng, thống nhất, hỗ trợ, tác động bổ trợ cho nhau trong chiến lược BVTQ. Tăng cường quốc phòng, an ninh còn trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước trong kỷ nguyên mới. Ngược lại, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đất nước mạnh giàu làm hậu thuẫn cho xây dựng nền quốc phòng, an ninh hùng mạnh. Đây là quan điểm xuyên suốt, chủ trương nhất quán của Đảng, được bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện thực tế qua các kỳ đại hội. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”[15]. Để đáp ứng được yêu cầu này, lực lượng vũ trang cần tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; gắn với Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22-3-2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030. Tập trung sức phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật - tinh thần cho CNXH, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Hiện nay, các thế lực thù địch thay đổi chiến lược và phương thức chống phá chúng ta toàn diện trên mọi lĩnh vực bằng phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng. Vì vậy, đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị… là những phương thức để BVTQ từ sớm, từ xa là yêu cầu thường trực và cấp bách đặt ra cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đảm bảo phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; tăng cường ổn định xã hội và tăng tiềm lực quốc phòng, an ninh; cùng với công bằng xã hội được thực hiện tốt sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần cho khối đại đoàn tế kết dân tộc, cơ sở sở chính trị xã hội của bạo lực cách mạng trong tình hình mới. Vì vậy, tiếp tục hoàn thiện chiến lược tổng thể kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong thời kỳ mới; hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường, bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực sức mạnh mọi mặt của quốc phòng, an ninh. 

Sáu là, từ tinh thần quốc tế và lời kêu gọi sự công nhận của thế giới trong Tuyên ngôn độc lập đến hoạch định và phát huy mạnh mẽ, hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực đẩy mạnh đa dạng, đa phương hóa quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần tự lực, tự cường, chủ động và tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, hợp tác cùng phát triển vì một thế giới hòa bình, phát triển bền vững

Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh thể hiện tầm nhìn rộng, có tính bao quát lớn chiến lược về ngoại giao và chính trị quốc tế; những mối quan hệ quốc tế phức tạp nhưng lợi ích quốc gia - dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh phát đi thông điệp mạnh mẽ của Đảng: “một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít, dân tộc đó có quyền được hưởng tự do, độc lập”[16] là cơ sở cho sự kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế trong cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật và của tinh thần quốc tế Việt Nam. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ thuận lợi của quốc tế là học quý báu chúng ta vận dụng thành công. Điều đó đã trở thành bài học lớn cho nền ngoại giao Việt Nam trong tình hình mới.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực tranh thủ ngoại lực. Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược với "dĩ bất biến ứng vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đại hội XIII của Đảng tiếp nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”[17].  Xây dựng chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 24/1/2025 về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới" khẳng định: “Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh sâu rộng, toàn diện, hiệu quả hơn, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, nâng cao tiềm lực và vị thế quốc tế của đất nước”.

Kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh để tạo thế chân kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Tham gia hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh đảm bảo cả bề rộng, chiều sâu đóng vai trò tiên phong, mở đường đối ngoại Đảng, Nhà nước nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, tạo lập môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay trên cơ sở của Tuyên ngôn Độc lập là nền tảng chính trị, tinh thần to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

 

Dưới đây là một số hình ảnh:

Đảng ủy  Học Viện Chính trị CAND tổ chức sinh hoạt chính trị nhân kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh 2/9/1945 tại Di tích lịch sử 48 Hàng Ngang (Hà Nội)

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.       Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII), Nghị quyết s 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 về Chiến lược bảo vệ T quốc trong tình hình mới, Hà Nội

2.       Ban Tuyên giáo Trung ương (2020): Công tác tuyên giáo với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

3.       Bộ Chính trị, Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Hà Nội

4.       Bảo tàng Hồ Chí Minh (2010): “Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh – giá trị lý luận và ý nghĩa thời đại”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội

5.       Bộ Chính trị, Nghị quyết sổ 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tỉnh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cẩu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Hà Nội

6.       Bộ Chính trị, Nghị quyết sổ 29-NQ/TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược bảo vệ Tô quốc trên không gian mạng, Hà Nội

7.       Bộ Chính trị, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”

8.       Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tống kết (2015), Báo cáo tổng kết một so vấn đề lý luận - thực tiên qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Hà Nội

9.       Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, II

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội

11.  Hồ Chí Minh (2006): Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, tập 1, 4, Hà Nội

12.  Đinh Thế Huynh (Chủ biên-2015): 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội

13.  Bộ Chính trị (khóa XIII): Nghị quyết số 57-NQ/TW Ngày 22/12/2024 “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”

14.  Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 ngày 15/4/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025

15.  Bộ Chính trị (khóa XIII): Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

16.  Bộ Chính trị (khóa XIII): Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân do Bộ Chính trị

17. Trần Thị Minh (2023): Phát huy bài học “lấy dân là gốc” trong lịch sử vào xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh hướng tới hùng cường, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội

18. V.I. Lênin (1918): “Một bài học gian khổ nhưng cần thiết”, V.I.Lênin Toàn tập, Tập 35, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005

19.  Đại tướng, GS. TS Tô Lâm (2021): Những điểm mới về an ninh quốc gia trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội

20.   Nguyễn Yến Thanh (): Bổi cảnh quốc tể mới và vẩn đề đặt ra đổi với nhiệm vụ bảo vệ Tô quốc, bảo đảm an ninh quốc gia Việt Nam

21.   Bùi Đình Tiệp (2024): Bảo vệ Tổ Quốc từ sớm, từ xaTầm nhìn chiên lược của Đảng trong thời kỳ mới”, Nxb Quân đội nhân dân

22.   https://mattran.org.vn/tin-tuc/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-viet-nam-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-su-nghiep-bao-ve-to-quoc-64323.html

23.   https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-le-ky-niem-quoc-khanh-2-9-119240829210529339.htm

24.  https://dangdoan.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=1751&Caching=reload

25.   https://baomoi.com/tong-bi-thu-to-lam-xac-dinh-cho-duoc-muc-tieu-tong-quat-va-cac-dot-pha-chien-luoc-trong-nhiem-ky toic52774821.epi?utm_source=iapp&utm_medium=zalomsg&utm_campaign=share&zdlink=Uo9XRcHoRsba8ZeYOszjBcLmQI8i8cblSo8wUo9pOsXbRMLVTN9i8ZeYUc5iRoqsDJ4vDpaqDZOwN2zSBo8i8c5mS6ba8ZeYDZKnEJSvD3Os8drz

 

 

Phan Xuân Tuy

Ủy viên Hội đồng Lý luận - Bộ Công an, Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân

 



[1] Bửu kế: Từ điển Hán Việt, Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, tr.1821

[2] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, t.49, tr.26

[3] Hồ Chí Minh : Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, tập 1, tr.111-112

[4] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011)

[5] https://mattran.org.vn/tin-tuc/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-viet-nam-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-su-nghiep-bao-ve-to-quoc-64323.html

[6] Diễn văn tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2-9-1946) tổ chức tại Pa-ri - Hồ Chí Minh - Toàn tập- Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tập 4, tr.326

[7] https://dangdoan.mae.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=1751&Caching=reload

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, 2021, T.II, tr.229.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr110-111

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tập 4, tr.3

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.34

[12] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-le-ky-niem-quoc-khanh-2-9-119240829210529339.htm

[13] https://baomoi.com/tong-bi-thu-to-lam-xac-dinh-cho-duoc-muc-tieu-tong-quat-va-cac-dot-pha-chien-luoc-trong-nhiem-ky-toi-c52774821.epi?utm_source=iapp&utm_medium=zalomsg&utm_campaign=share&zdlink=Uo9XRcHoRsba8ZeYOszjBcLmQI8i8cblSo8wUo9pOsXbRMLVTN9i8ZeYUc5iRoqsDJ4vDpaqDZOwN2zSBo8i8c5mS6ba8ZeYDZKnEJSvD3Os8drz

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, , tr. 68.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.3

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 164

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website