Điều chỉnh chiến lược toàn cầu trong nửa đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ J.Biden

siêu cường duy nhất, chiến lược toàn cầu bất di bất dịch của Mỹ luôn nhằm mục tiêu bảo vệ địa vị “thống soái” của mình, bảo vệ, duy trì lợi ích, an ninh quốc gia và khuếch trương giá trị Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, Mỹ thường xuyên duy trì chính sách đối ngoại can dự mở rộng, chú trọng đến các khu vực có lợi ích chiến lược và điều chỉnh chính sách theo sự vận động của tình hình.

Tổng thống Mỹ J.Biden

1. Những điều chỉnh chiến lược trong 2 năm cầm quyền của Tổng thống J.Biden

Do chế độ lưỡng đảng, nên chính sách thực thi cụ thể dưới mỗi thời Tổng thống Mỹ lại có sự điều chỉnh khác nhau. Đến thời Tổng thống J.Biden (2021), chính sách Mỹ được điều chỉnh theo hướng nhanh chóng “mềm hóa” những chính sách của D.Trump, thậm chí có những chính sách trái ngược hoàn toàn như mở lại cửa cho người nhập cư vào Mỹ; tham gia trở lại COP21, JCPOA và WHO; tái thiết quan hệ với EU và can dự mạnh hơn với Liên Hợp quốc; theo đuổi gia hạn Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công (New START)… Nhưng trên hết, vẫn là coi trọng lợi ích của nước Mỹ, người Mỹ và giá trị Mỹ. Mặt khác, do lấy quốc phòng làm trọng tâm, Mỹ tập trung vào “cạnh tranh sức mạnh quân sự với các cường quốc”. Chính quyền Biden lo ngại việc Trung Quốc và Nga đang ngày càng tăng cường đầu tư về quân sự, quốc phòng khiến họ có khả năng giành lợi thế trong nhiều lĩnh vực trước Mỹ. Do đó, Mỹ cần phải có một chiến lược mới cùng một cách tiếp cận khác nhằm kết hợp chặt chẽ hơn với các đồng minh, đối tác để chống lại các “mối đe dọa an ninh quốc gia” từ các nước này. Theo đó, Mỹ tuyên bố tái can dự với cộng đồng quốc tế, tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ, chấm dứt các cuộc chiến kéo dài ở nước ngoài, đáp trả các đối thủ đe dọa lợi ích cốt lõi… Đồng thời, Mỹ đề ra chiến lược “răn đe tích hợp” hay còn gọi là “răn đe tổng hợp”, sử dụng mọi công cụ cả quân sự và phi quân sự để cùng với đồng minh, đối tác đối phó, ngăn chặn các thách thức đặt ra.

2. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với từng khu vực

Với châu Âu, Mỹ luôn coi khu vực này là nhân tố then chốt trong chính sách đối ngoại nên sử dụng NATO làm phương tiện để duy trì ảnh hưởng và bảo vệ lợi ích của Mỹ. Đồng thời, Mỹ “làm ấm” lại quan hệ với EU bằng nhiều chính sách và hành động tích cực như: (1) Trấn an đồng minh thông qua các khẳng định, cam kết chính sách duy trì quan hệ, tái lập quan hệ và đổi mới quan hệ; (2) Tích cực can dự thông qua các cuộc tiếp xúc; (3) Coi trọng xử lý bất đồng để gỡ bỏ rào cản quan hệ hai bên; (4) Chuyển trọng tâm từ xung đột lợi ích sang củng cố lợi ích chung; (5) Thiết lập cơ chế mới để tăng cường hợp tác. Tuy nhiên, tác động chính sách của Mỹ lại khiến cho an ninh châu Âu trở nên căng thẳng. Đặc biệt, chiến tranh Nga-Ukraine cùng sự kiện Anh rời khỏi EU khiến cho uy thế và sức mạnh của tổ chức này có nguy cơ suy giảm nghiêm trọng.

Với Nga, trước sự phục hồi mạnh mẽ trở lại về vị thế và ảnh hưởng của Nga tại khu vực và thế giới, Mỹ lo ngại sẽ bị Nga đánh bật ảnh hưởng khỏi châu Âu, tiến tới mở rộng ảnh hưởng trên toàn cầu. Mỹ cũng ý thức sâu sắc rằng, sự lớn mạnh của Nga là nguy cơ, thảm họa hay chí ít cũng cản trở việc duy trì tham vọng thống trị thế giới của Mỹ. Vì thế, Mỹ ra sức ngăn chặn Nga bằng việc tăng cường lôi kéo đồng minh, đối tác thuộc không gian hậu xô viết nhằm chia rẽ, tạo thế bao vây cô lập, ban hành các lệnh trừng phạt kinh tế; triển khai lực lượng, vũ khí, trang bị và tổ chức các cuộc diễn tập tại các quốc gia gần biên giới Nga; thúc đẩy mở rộng NATO, tăng cường kết nạp thành viên mới, đồng thời mở rộng khối về phía đông, sát biên giới Nga. Việc Ukraine quyết tâm gia nhập NATO và EU cũng như những hành động trên của Mỹ được ví như “nòng pháo chĩa thẳng cửa nhà” khiến Nga “đứng ngồi không yên” vì an ninh quốc gia bị đe dọa. Kết cục không tránh khỏi là xung đột Nga-Ukraine biến thành chiến tranh và các nhà phân tích chiến lược nhận định rằng, sau cuộc chiến này, trật tự bàn cờ quan hệ giữa các nước tại lục địa già có thể sẽ được sắp xếp lại. Những gì Mỹ làm hiện nay là nhằm huy động cả khối châu Âu, các tổ chức quốc tế, nhất là các thực thể kinh tế để bao vây trừng phạt Nga cho thấy, chiến lược “răn đe tổng hợp” đang được thực thi và phát huy tác dụng. Song, điều đó có thành công hay không còn tùy thuộc vào thời gian, sức chống chịu và quan hệ của Nga với phần còn lại của thế giới.

Với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương: Dưới thời J.Biden, Mỹ vẫn tiếp tục thực thi chiến lược của người tiền nhiệm, nhưng đặt trọng tâm vào: (1) Sự kết hợp sâu sắc giữa khả năng của Mỹ và đồng minh tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc chiến tranh hiện đại, củng cố cả nhận thức và cơ sở vật chất về lợi thế chiến lược của Mỹ; (2) Hợp tác với các đồng minh của Mỹ để xây dựng khả năng răn đe tập thể ở khu vực này một cách toàn diện hơn. Ở khu vực này, Mỹ theo đuổi 5 mục tiêu chính, gồm:

Mục tiêu tự do và rộng mở: Mỹ đầu tư vào các thể chế “dân chủ”, báo chí “tự do” và một “xã hội dân sự năng động”; cải thiện “minh bạch tài khóa” ở khu vực nhằm “phơi bày tham nhũng” và thúc đẩy cải cách; đảm bảo các vùng biển và bầu trời của khu vực được quản lý và sử dụng dựa theo luật pháp quốc tế; thúc đẩy các phương pháp tiếp cận chung đối với các công nghệ then chốt, mới nổi, internet và không gian mạng.

Mục tiêu kết nối: Mỹ củng cố liên minh trong khu vực với Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan; tăng cường quan hệ với các đối tác hàng đầu, bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Singapore, Đài Loan, Việt Nam và các quốc đảo ở Thái Bình Dương, đồng thời tăng cường khả năng chống chịu cho các quốc đảo này; ủng hộ cho một ASEAN ngày càng có tiếng nói mạnh mẽ và thống nhất; tăng cường nhóm Bộ tứ (QUAD) và thực hiện các cam kết của nhóm; ủng hộ sự tiếp tục trỗi dậy cũng như vai trò lãnh đạo của Ấn Độ trong khu vực; tạo dựng kết nối giữa khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với châu Âu-Đại Tây Dương; mở rộng sự hiện diện ngoại giao của Mỹ, đặc biệt là Đông Nam Á và các quốc đảo Thái Bình Dương.

Mục tiêu thịnh vượng, Mỹ đề xuất Khuôn khổ kinh tế ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF). Ở đó, Mỹ xây dựng cách tiếp cận mới đối với thương mại, đáp ứng các tiêu chuẩn cao về lao động và môi trường; quản lý nền kinh tế kỹ thuật số cũng như các dòng chảy dữ liệu xuyên biên giới theo các nguyên tắc mở, thiết lập khuôn khổ mới cho phát triển kinh tế số; thúc đẩy các chuỗi cung ứng có khả năng chống chịu và an toàn, đa dạng, cởi mở và dễ dự báo; xúc tiến đầu tư chung vào kinh tế phi carbon và năng lượng sạch; thúc đẩy thương mại, đầu tư tự do, công bằng và cởi mở thông qua Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC)-nơi Mỹ sẽ là chủ nhà năm 2023; thu hẹp khoảng cách về cơ sở hạ tầng trong khu vực thông qua sáng kiến “Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn” (B3W) cùng với các đối tác trong nhóm G7.

Với mục tiêu an ninh, Mỹ tăng cường khả năng răn đe tổng hợp, thắt chặt hợp tác, tăng cường khả năng phối hợp cùng với các đồng minh và đối tác; duy trì “hòa bình và ổn định” tại khu vực eo biển Đài Loan; đổi mới để tác nghiệp hiệu quả trong môi trường mới với mối đe dọa thay đổi nhanh chóng, bao gồm không gian, không gian mạng, cũng như các lĩnh vực công nghệ then chốt và mới nổi; tăng cường khả năng răn đe và phối hợp mở rộng với các đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản, đồng thời theo đuổi mục tiêu phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên; tiếp tục thực hiện các mục tiêu của quan hệ đối tác ba bên Mỹ-Anh-Australia (AUKUS); tăng cường sự hiện diện của Tuần duyên Mỹ cũng như hợp tác chống lại các mối đe dọa xuyên quốc gia khác; vận động Nghị viện để tài trợ cho “Sáng kiến răn đe Thái Bình Dương” và “Sáng kiến an ninh biển”.

Với mục tiêu tăng cường khả năng chống chịu của khu vực, Mỹ chú trọng hợp tác với các đồng minh và đối tác nhằm xây dựng các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch và chính sách tới năm 2030 và 2050, nhất quán với mục tiêu hạn chế sự ấm lên toàn cầu ở mức 1,50C; giảm thiểu khả năng dễ bị tổn thương của khu vực trước những tác động của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường; chấm dứt đại dịch Covid-19, đồng thời củng cố an ninh y tế toàn cầu.

Với Trung Quốc: Thừa nhận sự nổi lên của nước này, Mỹ hiểu rằng, trong tương lai, Trung Quốc sẽ là đối thủ không thể né tránh. Do vậy, Mỹ đã triển khai một loạt chính sách nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo đó, Mỹ đẩy mạnh thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, tăng cường quan hệ và củng cố liên minh với các nước xung quanh Trung Quốc; thúc đẩy mở rộng hoặc nâng cấp quan hệ với các nước Indonesia, Việt Nam… Đồng thời, tìm kiếm và thúc đẩy xây dựng các trục liên minh theo kiểu tam giác, tứ giác; tăng cường lực lượng quân sự, bố trí vũ khí, trang bị hiện đại bao quanh Trung Quốc; kiên trì “luật quan hệ” và thúc đẩy quan hệ, trong đó có việc tăng cường bán vũ khí cho Đài Loan; gia tăng can dự vào các vấn đề bên trong của Trung Quốc như nhân quyền, dân chủ, dân tộc nhằm buộc nước này phải tập trung đối phó với những bất ổn nội bộ; sử dụng vấn đề Biển Đông làm biểu tượng bảo vệ lợi ích an ninh Mỹ tại khu vực. Gần đây, chính quyền J.Biden dường như tỏ ra kém cứng rắn và thiếu kiên quyết hơn so với chính quyền tiền nhiệm trong đối phó với Trung Quốc, song vẫn duy trì “cạnh tranh cao độ trong kiểm soát” nhằm tránh xảy ra chiến tranh lớn với Trung Quốc. Chính sách của Mỹ một mặt, nhằm duy trì quan hệ để kiềm chế và hướng lái Trung Quốc theo luật chơi của Mỹ, mặt khác, là nhằm dằn mặt, cảnh báo, ngăn chặn Trung Quốc. Các biện pháp mà Mỹ sử dụng gồm: Tiếp tục trừng phạt thuế để ép Trung Quốc cân bằng thương mại với Mỹ; duy trì bộ luật quan hệ với Đài Loan; tố cáo Trung Quốc về dân chủ, nhân quyền, nhất là vấn đề người Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông; tiến hành tẩy chay ngoại giao và gây sức ép với Trung Quốc trong điều tra nguồn gốc virus Covid-19… Mỹ không những phản đối Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, mà còn tiếp tục các hoạt động tự do hàng hải (FONOP), hàng không tại khu vực, huy động nhiều lượt máy bay, tàu chiến Mỹ và đồng minh đến Biển Đông hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh phải tập trung đương đầu với Nga, Mỹ phần nào lo ngại Trung Quốc “tiếp tay” cho Nga nên dường như có sự “nhún nhường”, bởi Mỹ không muốn rơi vào thế đối đầu cùng lúc với cả 2 cường quốc.

Với khu vực Trung Đông, Bắc Phi, chính quyền J.Biden đã thay đổi chính sách đối với vấn đề hạt nhân của Iran. Nếu như dưới thời của D.Trump, Mỹ tỏ ra kiên quyết và cứng rắn khi cho rằng JCPOA không có giá trị ngăn cản Iran giải trừ vũ khí hạt nhân và tuyên bố phủ nhận Thỏa thuận này, thì đến thời J.Biden, Mỹ lại tỏ ra mềm mỏng hơn khi đang nỗ lực đưa vấn đề hạt nhân Iran trở lại bàn đàm phán. Song, Mỹ vẫn tiếp tục công nhận Jerusalem là Thủ đô của Israel và gia tăng củng cố quan hệ với các đồng minh thân cận ở Trung Đông, làm mới lại quan hệ với thế giới Hồi giáo để tập hợp lực lượng và rút quân chiến thuật khỏi Afghanistan. 

Với khu vực Đông Nam Á: Chính sách của chính quyền J.Biden với khu vực này được đặt trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với hai mục tiêu: Xây dựng lại các liên minh, quan hệ đối tác, cam kết lập trường đa phương của Mỹ và giải quyết những thách thức mang tính hệ thống đến từ Trung Quốc.

Mỹ nhấn mạnh ủng hộ một ASEAN tăng cường năng lực và thống nhất, coi Việt Nam, Indonesia, Singapore và Malaysia là các đối tác hàng đầu bên cạnh hai đồng minh Philippines và Thái Lan. Từ đó, Mỹ tái khẳng định sự ủng hộ đối với vai trò trung tâm của ASEAN; không buộc các quốc gia trong khu vực phải “chọn phe” (Mỹ hoặc Trung Quốc) và tìm cách ổn định cạnh tranh chiến lược, kiềm chế Trung Quốc để ngăn chặn sự leo thang dẫn đến xung đột vũ trang. Mỹ cũng tránh can thiệp vào cuộc đảo chính ở Myanmar và ủng hộ vai trò của ASEAN tại đây; thúc đẩy cung cấp hàng hóa công cho khu vực trong các lĩnh vực biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, đặc biệt là vaccine Covid-19. Mỹ đã loại trừ việc tham gia CPTPP, song sẽ xây dựng IPEF để khỏa lấp khoảng trống kinh tế của Mỹ trong chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ tiến hành các nhiệm vụ hiện diện thường xuyên và tổ chức các cuộc tập trận ở Biển Đông. Trong tương lai, Mỹ sẽ hỗ trợ nhiều hơn cho các bên tranh chấp ở khu vực để các nước này phản ứng tốt hơn với chiến thuật “vùng xám” của Trung Quốc và bảo vệ quyền chủ quyền của họ ở các vùng đặc quyền kinh tế.

Với châu Mỹ latinh, chính quyền Biden vẫn tiếp nối chính sách của D.Trump song có phần mềm hóa hơn, điển hình là Mỹ lại cho phép người Mỹ latinh được nhập cảnh vào Mỹ ở hạn mức nhất định, dừng việc xây dựng bức tường biên giới với Mexico; thúc đẩy quan hệ hợp tác hơn với Cuba khi đề nghị mở rộng nhân sự và hoạt động của cơ quan lãnh sự 2 nước; giảm bớt các biện pháp kích động lật đổ chính quyền các nước Venezuela, Brazil, Argentina… Đồng thời, tận dụng chống đại dịch Covid-19 và những bất ổn ở khu vực để viện trợ, tài trợ và can thiệp vào các nước tại khu vực nhằm duy trì ảnh hưởng.

Lời kết: Quá trình điều chỉnh chính sách của Mỹ tạo ra mâu thuẫn và sự xung đột lợi ích khó tránh khỏi với các nước, các khu vực, thậm chí cả trong nội bộ nước Mỹ. Nhìn nhận sự điều chỉnh này như một tất yếu và xem xét, nghiên cứu, đánh giá thật đầy đủ những tác động nhiều chiều trong điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn nói chung và Mỹ nói riêng, là nhằm sớm nhận biết thời cơ và nguy cơ, cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn; sớm xác định được bạn hay thù, đối tác hay đối tượng… để từ đó có những giải pháp khả thi, phù hợp bảo vệ vững chắc lợi ích, an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc.

 

Đình Thiện - Thanh Tú

 

Lời cảm ơn: Bài viết kế thừa kết quả nghiên cứu đề tài: Địa chiến lược Việt Nam trong chính sách của các nước lớn và những vấn đề đặt ra đối với lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam. Mã số: BNV.2021.T03.017

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Xem nhiều nhất

Liên kết website